Các quân lính đều nói: “xin vâng lệnh, không dám hai lòng!” 2021

Thủ Thuật Hướng dẫn Các quân lính đều nói: “xin vâng lệnh, không đủ can đảm hai lòng!” 2021


Người Hùng đang tìm kiếm từ khóa Các quân lính đều nói: “xin vâng lệnh, không đủ can đảm hai lòng!” 2022-03-22 13:02:04 san sẻ Bí quyết Hướng dẫn trong nội dung bài viết một cách Chi Tiết.







BÀI LÀM


Chuyện vua Quang Trung đại phá quân Thanh, ngày này, hẳn chẳng mấy ai còn không biết. Người dân Việt từ lâu đã từng thân thiết và tự hào với những tên gọi Tp Hà Nội Thủ Đô, Ngọc Hồi, Khương Thượng, Q.. Đống Đa…


Nhưng hình như không phải ai cũng biết rằng, phần lớn những gì vẫn được truyền tụng về chiến công oai hùng nó lại không được lấy trực tiếp từ chính sử. Phải đâu ai cũng tỏ tường rằng những hiểu biết lâu nay về yếu tố kiện đại phá quân Thanh chính ra lại chứa được nhiều nhất trong một tác phẩm vẫn sẽ là tiểu thuyết, cuốn sách mang tên Hoàng Lê nhất thống chí của dòng họ Ngô Thì ở làng Ta Thanh Oai (nay thuộc về Tp Hà Nội Thủ Đô, chứ không phải Hà Tây – như nhiều sách đã ghi lầm). Quả thế, nếu muốn được hít thở lại bầu không khí của những tháng ngày có thắng lợi tưng bừng đó thì không gì hơn là cùng đọc lại Hồi thứ mười bốn trong thiên tiểu thuyết lịch sử dân tộc bản địa của văn phái họ Ngô.


Thế nhưng trong chủ đích của người viết Hoàng Lê nhất thống chí thì Hồi thứ mười bốn này được soạn ra không cốt để ngợi ca thắng lợi của Quang Trung. Ai còn hồ nghi xin hãy tìm hiểu thêm lại hai vế đối mở đầu, người làm sách, theo lệ thường của tiểu thuyết chương hồi, vẫn muốn thông qua đó để tự tóm tắt nội dung chính của toàn hồi truyện:


Đánh Ngọc Hồi, quân Thanh bị thua trận
Bỏ Thăng Long, Chiêu Thống trốn ra ngoài


Rõ ràng, theo tác giả, đấy là một đoạn truyện kể về vua Lê, được nhờ phía vua Lê, theo như đúng tinh thần “Hoàng Lê thống nhất”. Nên trong trích đoạn này của thiên tiểu thuyết, nếu có ai được gọi chỉ bằng một chữ “vua thì kẻ đó nhất định phải là Lê Chiêu Thông, nếu có quân đội nào được gọi là “nghĩa binh” (quan chính nghĩa) thì này cũng chỉ trọn vẹn có thể là “quân đội” của nhà Lê (trong lúc lực lượng thực đáng gọi là nghĩa quân, nghĩa binh, quân đội Tây Sơn lại chỉ được gọi chung chung là “quân lính”, “quân sĩ”, không hề có chữ “nghĩa” nào cạnh bên). Vào khoảng chừng cuối đoạn trích, người viết còn ghi lại rõ ràng kể về cuộc gặp gỡ giữa mẹ con vua Lê với những người thổ hào tại một sơn trại thuộc vùng Hòa Lạc. Đây không phải một sự cố ý tạo ra trường hợp vui nhộn, để người đọc có dịp nhạo cười một kẻ ngu trung. Trái lại, tác giả dường như đã gắng công để cuộc gặp gỡ có ánh lên vẻ cao đẹp của một tấm lòng thần tử tận tụy, trung trinh, trong cả khi đấng quân vương của tớ vẫn đang còn khốn khó. Trong rõ ràng này, thấy có cả mừng tủi lệ rơi, cả cơm gà vội vàng thiết đãi, cả lối tắt đưa vua chạy loạn… tác giả như cố nhắn rằng: so với cái triều đại đã tàn kia, lòng người còn chưa nỡ bỏ, và dẫu vua Lê có lâm vào cảnh hoạn nạn thì trong đời vẫn chưa hết môi cô trung…


Có nghĩa là, xét về mặt lập trường chính trị, tác giả Hoàng Lê nhất thống chí đứng về phía đối địch với trào lưu khởi nghĩa Tây Sơn. Song như ý làm thế nào họ Ngô đang không thể thắng chính mình. Mối tình cảm chính trị ấy đã
không thắng nổi tình yêu thực sự, không thắng nổi lương tri, lương tâm của ngươi biết nhận ra thực sự và tha thiết muốn nói lên thực sự. Tình cảm chính trị ấy đang không thể chuyển hóa thành sức mạnh văn chương, không đủ sức chi phối nội dung của văn chương. Không biết người viết Hồi thứ mười bốn của Hoàng Lê nhất thống chí có ngờ rằng, với khu công trình xây dựng nghệ thuật và thẩm mỹ này, mình đang viết bản án dành riêng cho chính cái quyết sách mình vẫn hằng tôn kính? Và con người phù Lê ấy liệu có tự giác nhận ra rằng mình đang tấu lên khúc hùng ca dành riêng cho những người dân đang kết thúc số mệnh lịch sử dân tộc bản địa của chính nhà Lê?


Nhưng đấy đó là yếu tố thật. Một thực sự vô cùng thú vị khi ta tiếp nhận, thưởng thức và suy ngẫm về tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí.




Tuy nhiên, tác giả của những trang viết ta đang nói tới là một nhà văn, một người làm nghệ thuật và thẩm mỹ. Tư cách nghệ sĩ không được cho phép ông kể thực sự một cách phiến diện, giản đơn. Hồi chuyện được khởi đầu từ phía có vẻ như như ngược lại. Đội quân xâm lược nhà Thanh thoạt nhiên được nói tới cứ y như một đạo hùng binh, với sức mạnh lay thành phá ải, không gì trọn vẹn có thể đương đầu: “Lại nói, Tôn Sĩ Nghị sau khoản thời hạn đem quân ra cửa ải, xuyên rừng vượt núi như giẫm đất bằng, ngày đi đêm nghỉ, không phải lo ngại gì, kéo thẳng một mạch đến thành Thăng Long, không mất một mũi tên, như vào chỗ không người. Cứ xem đây thì chống chọi lại một đội binh thế này khác nào đem trứng chọi cùng với đá? Chưa hết, ngay liền tiếp sau đó, tác giả lại bồi thêm: “Từ xưa, những nhà cầm quân chưa tồn tại lúc nào được thuận tiện và đơn thuần và giản dị như vậy.


Nhưng sự thuận tiện và đơn thuần và giản dị trước đó chưa từng có đó, chính nó lại làm cho những người dân từng trải, biết suy xét có lý để mà ngờ vực. Từ rất mất thời hạn trước đó, người xưa đã hiểu rằng cái gì đến độ thái quá, đến tột cùng thì thế nào thì cũng gặp sự biến. “Cùng tắc biến” (đến tận cùng thì phải thay đổi). Nhưng mà biến theo chiều trái lại. Và cái mầm mống của yếu tố ấy, tác giả đang không làm cho những người dân đọc phải đợi chờ lâu. Cố nhân từ xưa đã dạy: “thắng không kiêu”, Nhưng đạo quân của Tôn Sĩ Nghị còn chưa kịp thắng trận nào cho ra thắng mà đã quá vội kiêu: mới tân lính những đồn tự tiện bỏ cả đội ngũ, đi lại thong thả, không tồn tại kỷ luật gì cả… Bọn tướng tá cùng trong ngày chơi bời tiệc tùng, không hề để ý đến việc quân”. Mầm mống của diệt vong đã được nứt nanh từ đây.


Chuyện trở nên rõ ràng hơn qua lời của người cung nhân cũ tới từ phủ Trường Yên. Không rõ những lời nói ấy về mặt sử học thì đúng chuẩn và sâu xa tới mức nào, chứ về mặt văn chương thì rõ ràng này cực thú. Không hẳn chỉ vì những lời nói của người từng là cung nữ ấy đã phác họa ra đại cực, thắng lợi của vua Lê, nếu có, cũng chưa mang ý nghĩa gì lớn, mà mối nguy cho triều Lê thì quả đã như mồi lửa âm ỉ bên trong tường vách. Cũng không hẳn chỉ vì những câu nói ấy đã sớm đem lại ấn tượng về một Nguyễn Huệ bách thắng, một Nguyễn Huệ kiêu hùng, từ trước lúc Nguyễn Huệ bằng thịt bằng xương xuất hiện trên chương truyện: “Xem hắn ra Bắc vào Nam, ẩn hiện như quỷ thần, không tồn tại ai trọn vẹn có thể lường biết. Hán bát Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Văn Nhậm như giết con lợn… Thấy hắn trở tay, đưa mắt là ai nấy đều phách lạc hồn xiêu, sợ hơn sợ sấm sét. E rằng chẳng mấy lâu nữa hắn lại trở ra, tổng đốc họ Tôn đem thứ quán nhớ nhà kia mà chống chọi, thì địch sao cho nổi”?. m vang của một thắng lợi hào hùng nghe như đã văng vẳng dần lên từ lời chú ý quan tâm của cung nhân.


Cái thú văn chương trong rõ ràng về người cung nhân còn trọn vẹn có thể nhìn ra từ chỗ: nó đã cho toàn bộ chúng ta biết, hóa ra, một phụ nữ tầm thường, hèn mọn, bị vua ruồng bỏ, xa cung cấm đã lâu, thế mà còn thông hiểu binh tình gấp bội phần so với một Thái hậu “mẫu nghi thiên hạ” cao sang, quyền quý và cao sang. Rồi đến khi bà Thái hậu đem chuyện ấy nói với vua, vua nói lại với Tôn Sĩ Nghị thì ta còn vỡ lẽ: những kẻ nắm binh quyền dương dương tự đắc kia, còn không tồn tại nổi một kiến thức và kỹ năng đàn bà!


Vậy là một người phụ nữ vô danh đã và đang thừa kĩ năng mở mắt cho toàn bộ một bộ sâu triều đình, vua quan, tướng tá về kiểu cách định hình và nhận định tình thế, cách cầm quân. Lời nói của cung nữ xưa quả đã khiến Thái hậu phải “giật mình” và vua Lê “hoảng sợ”. Nhưng cũng chỉ đến thế thôi. Tác giả Hoàng Lê nhất thống chí đã nhận được ra và đã muốn toàn bộ chúng ta cùng thấu hiểu: Không gì trọn vẹn có thể đem lại cho bạn lũ bạc nhược kia sức mạnh trong ý chí và hành vi. Bọn chúng đang không hành vi, mặc dầu có lo ngại, có rất khó chịu trách mắng nhau. Bởi vì nỗi lo âu, lời quát nạt rồi cũng chóng qua đi. Và bọn người đổ lại tiếp tục nằm ườn ra trên lạc thú, lười nhác tự dối lừa mình trong ý nghĩ: “nên phải tính toán cho chu đáo không thể hấp tấp vội vàng và uể oải đợi chờ” “đến sang xuân, vào trong thời gian ngày mùng sáu thì sẽ xuất quân, như vậy cũng không hề xa gì nữa”.


Nhà văn đã cho ta thấy một mầm mống diệt vong nữa của bè lũ Lê Chiêu Thống. Nó nằm trong thực ra của một quyết sách đang không hề kĩ năng hành vi, không hề đủ sức mạnh, ý chí, quyết tâm để mà hành vi.


Và trong lúc bọn cướp nước và bán nước cứ đờ đẫn đi, rã rời ra trong kiêu căng và trễ nải thì người anh hùng áo vải Tây Sơn lại kịp khẩn trương làm được một núi việc khổng lồ.


Quả thế, nếu quân Thanh không làm gì khác ngoài việc ăn chơi thì quân Tây Sơn lúc nào thì cũng ráo riết trong sẵn sàng. Phía quân Thanh im lìm, bất động: trái lại, phía bên Tây Sơn, tình hình biến chuyển từng ngày. Hẳn
chẳng phải là yếu tố vô tình, khi chuyển mạch truyện sang phía Tây Sơn, người viết Hoàng Lê nhất thống chí đã đưa ra hàng loạt mốc thời hạn tiếp nối đuôi nhau nhau, dồn dập: “ngày 20 tháng ấy (tháng 11 âm lịch, năm Mậu Thân 1788). Sở lui về Tam Điệp thì ngày 24 Tuyết đã vào đến Phú Xuân”. Chỉ một tháng sau, Nguyễn Huệ đã làm xong mọi việc đắp đàn tố cáo trời đất, lên ngôi vua, chính vì hiệu, định đô, ban lệnh ân xá khắp trong ngoài và “hạ lệnh xuất quân, hôm ấy nhằm mục tiêu ngày 25 tháng chạp. Bốn ngày sau “ngày 29 đến Nghệ An”. Hơn một vạn quân được kén ngay tiếp sau đó và lập tức được đưa vào có ngũ chỉnh tề. Để rồi ngày 30, quân đến Tam Điệp và ngay tối hôm ấy, năm cánh hùng binh tràn ngập Bắc Hà, sau khoản thời hạn đã kịp mở tiệc khao quân, ăn Tết trước.




Ta đang rất được tận mắt tận mắt chứng kiến từ văn chương của Hoàng Lê nhất thống chí một cỗ máy vận hành hết hiệu suất, một hơi thở mạnh mẽ và tự tin, gấp gáp, một dòng máu chảy sục sôi trong huyết quản, một sức sống rạo rực, tưng bừng, đầy phấn chấn.


Tác giả Hồi thứ mười bốn của Hoàng Lê nhất thống chí thuộc về một dòng họ danh vọng số 1 trên đất Bắc. Còn Nguyễn Huệ xuất thân từ một người áo vải miền Trung. Song không vì thế mà văn phái Ngô gia đã vội nhìn lãnh tụ
Tây Sơn chỉ như một kẻ võ biển, một kẻ nông phu ít học. trái lại, người con của dòng họ Ngô thì đã vượt qua thật nhiều thành kiến để đem lại cho những người dân đọc thực sự về một Quang Trung giàu tri thức và am hiểu lòng người. Hãy lắng nghe lại một lời hiểu dụ của Hoàng đế Quang Trung trong cuộc duyệt binh lớn ở doanh trấn tại Nghệ An. Có phải là ta đã nhận được ra, từ phía dưới lời văn, cái hồn phách thiêng liêng của một Nam quốc sơn hà, cái giọng khuyến khích nghiêm nghị của một Hịch tướng sĩ, và nhất là cái âm hưởng dõng dạc, chứa đầy căng một niềm quật cường, tự hào ở những dòng thứ nhất của áng thiên cổ hùng văn Bình Ngô đại cáo?. Chắc chắn phải là một trí tuệ, một tâm hồn cao rộng lắm mới trọn vẹn có thể gồm có và chung đúc được chừng ấy tinh hoa trong một bài nói làm lay động lòng người.


Người đọc Hồi thứ mười bốn này cũng không thể quên những lời Quang Trung nói trong lần hội quân bên đèo Tam Điệp. Những lời nói cứng cỏi mà mềm dẻo, đầy uy vũ mà cũng không thiếu sự sáng suốt, khôn ngoan. Không đồng ý việc “giặc đến không đánh”, mới nghe tiếng đã chạy trước, đó là yếu tố tôn vinh dùng lược. Nhưng khen ngợi sự biết nín nhịn để tránh mũi nhọn của chúng, chia quân ra chặn giữ những nơi hiểm yếu, bên trong thì kích thích lòng
quân, bên phía ngoài thì làm cho giặc kiêu căng, đó là yếu tố tôn vinh mưu lược. Chưa thực sự ra quân mà đã sắp sẵn phương lược để thắng lợi ngăn nắp, nhanh gọn, con người ấy đã tính sớm nước cờ của tất cả mười ngày. Nhưng lo liệu đến hơn cả chuyện sau khoản thời hạn giặc đã thua rồi thì cử người “khéo lời lẽ… dẹp việc binh đao” để chờ cho tới khi nước giàu dân mạnh, con người ấy còn tính xong xuôi nước cờ của tất cả mười năm. Với những tướng lĩnh vùng quê và thân cận đã nhiều năm như Ngô Văn Sở, Quang Trung quở trách nghiêm khắc, quyết không làm cho quân pháp bị lơi lỏng, bị khinh nhờn. Nhưng với danh sĩ Bắc Hà mới đi theo cờ nghĩa như Ngô Thì Nhậm, Quang Trung lại yên ủy, vỗ về, không tiếc lời định hình và nhận định cao, không để lỡ dịp bày tỏ niềm tin cậy.


Vì thế, từ trước lúc thu phục trọn vẹn giang sơn, Quang Trung đã thu phục trọn vẹn lấy được lòng người. Quân lính dạ ran: “Xin vâng lệnh, không đủ can đảm hai lòng”, bầy tôi văn vũ (Ngô Thì Nhậm, Sở, Lân…) đều cảm kích. Con người như vậy quá là trí dũng vẹn toàn, xứng danh là hiện thân cho thắng lợi.


Và đó là yếu tố đến khắp khung hình mà thiện cảm chính trị hướng hẳn về bên đối địch với Quang Trung cũng không thể nào không thừa nhận.


Có cảm hứng rằng người viết Hoàng Lê nhất thống chí muốn người đọc phải dự kiến, phải tưởng tượng cuộc đối đầu giữa quân Tây Sơn với quân Thanh như một sự va đập quyết liệt giữa hai khối tự tin. Bên này quả quyết rằng “bọn giặc ấy sẽ lần lượt bị tóm gọn sống, không một bên nào lọt lưới”, thậm chí còn còn thử thách: “Người Nam Hà sẽ tới mà xem!”. Còn bên kia cũng nói chứng minh và khẳng định như dao chém đá rằng chuyến này mình sẽ đại phá quân Thanh trong vòng không thật mười ngày, tiếp sau này còn đưa ra một hạn định rõ ràng hơn: “Đến tối 30 Tết lập tức lên đường, hẹn đến ngày mồng 7 năm mới tết đến thì vào thành Thăng Long mở tiệc ăn mừng. Các ngươi nhớ lấy, đừng cho là ta nói khoác.


Nhưng tác giả sẽ từ từ cho ta hiểu hai khối tự tin kia nặng nhẹ rất rất khác nhau. Sự tự tin của quân Thanh là yếu tố tự tin kiêu ngạo và mù quáng, tự tin trong ảo tưởng, không biết gì về đối phương, không biết gì về tình thế. Trong khi niềm tự tin bên phía Tây Sơn được bảo vệ bảo vệ an toàn cứng ngắc rằng bằng cả một công phu sẵn sàng, từ lực lượng, phương tiện đi lại chiến đấu đến việc nuôi dưỡng hun đúc chí quyết tâm.


Vì thế, khi chiến dịch thực sự trình làng thì đó là trận đánh giữa một bên là can đảm và mạnh mẽ, là hào khí ngất trời với bên kia, chỉ thấy phản loạn, đớn hèn, khiếp nhược.




Cái chiến dịch phi thường ấy, trong Hoàng Lê nhất thống chí, chỉ được kể lại bằng thứ ngôn từ rất thường thì của truyện, của vốn xuôi. Và kể không dài, khi in vào sách giáo khoa thì cũng còn gần đầy nổi hai trang giấy. Nhưng đó là hai trang giấy vô cùng quý giá, vì nó đã ghi lại không riêng gì có thật chân thực mà còn thật sống động, thật có không khí, một thắng lợi cho tới ngày hôm nay vẫn là thần tốc nhất trong lịch sử dân tộc bản địa Việt Nam.


Người đọc truyện trọn vẹn có thể qua đây mà tưởng tượng ra một chuỗi trận đánh tiếp nối đuôi nhau nhau, trận nào thì cũng hùng tráng, trận nào thì cũng như chớp nhoáng, mà không trận nào giống trận nào. Có trận đánh ở hai sông, sông Gián và sông Thanh Quyết, hết cái gọi là “Nghĩa binh” của Lê Chiêu Thống, lại đến quân Thanh mới trông thấy bóng quân Tây Sơn từ xa đã sợ mất mật mà tự tan, mà tháo chạy, để rồi bị tóm gọn sống không thoát một tên. Rồi tới trận Hà Hồi, binh úy của vua Quang Trung đúng là như sấm động, chỉ việc dạ rạn lên cũng lấy được đồn. Chỉ thấy quân Thanh chống cự một lần duy nhất ở Ngọc Hồi, nhưng sự chống cự mới yếu ớt và ngắn ngủi làm thế nào! Chúng bắn ra để chẳng trúng người nào. Chúng dùng ống phun khói lửa ra, để tự chịu một trận hỏa công khi trời trở gió.


Tác giả Hoàng Lê nhất thống chí càng viết lại càng cho ta thấy rõ sự rất khác nhau một vực một trời giữa bè lũ Tôn Sĩ Nghị – Lê Chiêu Thống với quân tướng của Quang Trung. Với quân Thanh, súng đạn và ống phun lửa cũng chẳng có nghĩa gì, chẳng làm được việc gì ngoại trừ việc tự đốt mình. Còn với quân Tây Sơn, những vật dụng sinh hoạt thường ngày như ván, như rơm đã và đang đủ khiến họ trở nên vô địch. Quân Thanh chỉ chạy thôi đã và đang chết hàng vạn đứa, như ở đầm Mực, Quỳnh Đô. Còn lực lượng xung kích của Quang Trung trong trận Ngọc Hồi tính ra chỉ ở tại mức sáu trăm, vậy mà vẫn phá xong một tuyến phòng thủ kiên cố nhất.


Cái có của lũ cướp nước và bán nước, như người viết tác phẩm này đã cho toàn bộ chúng ta biết, là quân đông, vũ khí nhiều. Nhưng ý chí chiến đấu tinh thần chiến đấu, sự sẵn sàng cho chiến đấu lại là cái chúng không hề có. Tuyệt nhiên không thấy ở bọn này, dù chỉ một chút ít cái ý thức mà Trần Quốc Tuấn trước đó đã ghi tạc vào lòng dạ của những tướng dưới quyền mình: “nên nhớ câu “đặt mồi lửa vào dưới đông củi” làm rủi ro đáng tiếc tiềm ẩn tiềm ẩn, nên lấy điều “kiềng canh nóng mà thổi rau nguội” làm răn sợ”. Tác giả hồi truyện này đã cho toàn bộ chúng ta biết rõ: bọn chúng cứ yên tâm kể cả, dềnh dàng yến ẩm trên đống lửa, “không hề lo chi đến việc nguy hiểm”. Để rồi khi lửa cháy lên thì việc độc nhất chúng thật khẩn trương làm không phải là cứu hỏa, mà là bỏ chạy cho nhanh. Hồi thứ mười bốn của Hoàng Lê nhất thống chí thực tiễn đã thành tấm bia miệng còn vững chãi gấp hàng trăm, hàng trăm lần bia đá, để ghi lại cho muôn đời sau chê cười sự hèn nhát của một lũ vua quan tướng tá. Những rõ ràng rõ ràng, sinh động được nêu ra ở đây, quả thật hùng hồn hơn mọi lời nghị luận. Quang Trung là vua, nhưng vẫn tự mình cưỡi voi đốc chiến. Còn Tôn Sĩ Nghị, thân làm tổng chỉ huy, nhưng chưa xung trận mà đã sợ hãi tháo chạy, vội vã tới mức “Ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc giáp”.
Quân lính dưới quyền cũng không hề chiến đấu mà chỉ biết đuổi theo, để rồi sự hèn nhát chịu đòn trừng phạt ở đầu cuối: không tồn tại ai đánh mà quân chết đuối nhiều tới mức một dòng sông lớn như Nhị hà mà nước cũng phải ùn tắc, không chạy nổi. Mẹ con vua Lệ thì bị bỏ rơi, phải qua sông bằng thuyền đánh cá, lẽo đèo mãi mới gặp được Tôn Sĩ Nghị, thế mà vẫn phải chịu nhục nhã tỏ ra sư tri ân: “Đội ơn tướng quân… Đều là ơn của tướng quân ban cho!”.


Người viết Hoàng Lê nhất thống chí, dù muốn dù không, thì vẫn phải nhận rằng: sức mạnh duy nhất trong trận chiến chỉ trọn vẹn có thể tìm thấy từ phía của quân đội Tây Sơn. Sức mạnh ấy có nguồn gốc ở nhân dân. Dùng ván phủ rơm dấp nước kết lại thành lá chắn, thành tường chống đạn để xung phong, một sự khôn ngoan kỳ lạ thế không thể được sinh ra từ bọn người xa hoa, quyền quý và cao sang và sự phấn khích, đồng lòng muốn người như một, không ngại khó nhọc, không những quyết tử, tình cảm ấy đó là ánh lửa rực rỡ cháy lên từ tinh thần yêu nước của khối quần chúng nhân dân vĩ đại. Sức mạnh vô địch của nhân dân cộng với tài trí vô tuy nhiên của người lãnh đạo đã làm cho lực lượng của những người áo vải thường thì phút chốc lớn vụt lên sánh ngang thần thánh, uy thế chấn động trời đất, ẩn hiện, biến hóa xuất quỷ nhập thần, “tướng ở trên trời xuống, quân chui dưới đất lên”. Và Hồi thứ mười bốn này của Hoàng Lê nhất thống chí sẽ tiến hành thực sự trở thành một khúc hùng ca, với những câu văn cứ làm như ta phải nhớ không nguôi tới Bình Ngô đại cáo.


Rồi trong hồi truyện ấy, tác giả sẽ còn cảm cảnh cho Lê Chiêu Thông khi phải chạy khỏi Thăng Long. Rồi tác giả sẽ còn khép hồi truyện này bằng hai dòng thơ, như muốn gợi thật nhiều lâm li, ai oán:


Bờ cõi chưa xong bề tính liệu
Nước non buồn nỗi lúc chia tay


Nhưng có lẽ rằng họ Ngô đã hoài công. Tình cảm xót xa có lẽ rằng đang không thể truyền vào lòng của số đông người đọc truyện. Bởi trước đó, người viết đã quá thành; công trong việc dựng lên chân dung của một triều đại không hề sức sống: một triều đại nên phải chia tay, phải tiễn đưa xuống mồ một cách vui vẻ chứ không phải một cách buồn đau. Người viết đã và đang quá thành công xuất sắc trong việc tạo ra cảm hứng: thắng lợi oai hùng này quả thật là thuộc về người xứng đóng quân khởi nghĩa Tây Sơn dưới sự dẫn dắt của vị anh hùng dân tộc bản địa Quang Trung.




Video tương quan








Chia sẻ




đoạn Clip Các quân lính đều nói: “xin vâng lệnh, không đủ can đảm hai lòng!” ?


Một số hướng dẫn một cách rõ ràng hơn về Review Các quân lính đều nói: “xin vâng lệnh, không đủ can đảm hai lòng!” tiên tiến và phát triển nhất .


Share Link Down Các quân lính đều nói: “xin vâng lệnh, không đủ can đảm hai lòng!” miễn phí


Bann đang tìm một số trong những Chia Sẻ Link Cập nhật Các quân lính đều nói: “xin vâng lệnh, không đủ can đảm hai lòng!” Free.

#Các #quân #lính #đều #nói #xin #vâng #lệnh #không #dám #hai #lòng

Đăng nhận xét

Mới hơn Cũ hơn