Thủ Thuật về Ý nghĩa quân trọng nhất của thắng lợi chống Thanh 1789 là 2022
Bạn đang tìm kiếm từ khóa Ý nghĩa quân trọng nhất của thắng lợi chống Thanh 1789 là 2022-04-06 10:38:05 san sẻ Thủ Thuật về trong nội dung bài viết một cách 2021.
Trận Ngọc Hồi – Q.. Đống Đa (hay Chiến thắng Kỷ Dậu) là tên gọi thường gọi do những nhà sử học Việt Nam dành riêng cho loạt trận đánh chống ngoại xâm thắng lợi của nước Đại Việt thời Tây Sơn do vua Quang Trung lãnh đạo vào thời gian đầu xuân mới Kỷ Dậu 1789, đánh tan lực lượng Mãn Thanh do Tôn Sĩ Nghị chỉ huy – kéo sang biên giới và tràn vào lãnh thổ Đại Việt do sự cầu viện của vua Lê Chiêu Thống nhà Hậu Lê.
Trận Ngọc Hồi – Khương Thượng là thắng lợi quân sự chiến lược tiêu biểu vượt trội, thể hiện tài năng cầm quân của nhà vua Quang Trung nhà Tây Sơn. Quân Thanh có quân số đông hơn 2-3 lần (tùy từng những thống kê rất khác nhau), có cả ưu thế về địa hình (quân Thanh phòng thủ trong thành lũy trong lúc quân Tây Sơn phải hành quân từ xa đến), lại thêm vào đó cả quân Lê Chiêu Thống tương hỗ. Nhưng mặc kệ những trở ngại đó, vua Quang Trung đã hành quân thần tốc và đánh tan lực lượng quân Thanh và Lê Chiêu Thống, chiếm lại được kinh đô Thăng Long chỉ trong vòng 5 ngày. Chiến thắng này đã giữ vững sự tồn tại của nước Đại Việt trước họa xâm lược, chấm hết kế hoạch xâm chiếm của nhà Thanh. Lê Chiêu Thống phải đuổi theo quân Thanh sang Trung Quốc, ghi lại việc nhà Tây Sơn trở thành triều đại mới của nước Việt Nam, nắm quyền quản trị và vận hành đất Bắc Hà và được nhà Thanh chính thức công nhận. Mục lục
Bối cảnhSửa đổiNước Đại Việt thời gian cuối thế kỷ 18 rất rối ren và phân liệt nhiều hơn thế nữa sau hơn 200 năm chia cắt Đàng Trong và Đàng Ngoài. Năm 1771, ba bạn hữu Tây Sơn là Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ nổi dậy khởi nghĩa chống chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Sau hơn 10 năm kịch chiến, năm 1783, Nguyễn Nhạc lật đổ sự thống trị của chúa Nguyễn ở Đàng Trong, tự lập làm vua Thái Đức ở Quy Nhơn. Chúa Nguyễn mới là Nguyễn Ánh phải chạy sang Xiêm lưu vong. Năm 1786, Nguyễn Nhạc cử em là Nguyễn Huệ mang quân đánh Phú Xuân – kinh thành cũ của chúa Nguyễn, bị chúa Trịnh lấn chiếm năm 1775. Nguyễn Huệ đánh lấy Phú Xuân rồi đánh thẳng ra Thăng Long với danh nghĩa “Phù Lê diệt Trịnh”, tiêu diệt chúa Trịnh. Anh em Tây Sơn giao hiếu với vua Lê rồi rút quân về nam. Do sự tranh chấp về quyền lực tối cao, Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ nổ ra xung đột thời gian đầu xuân mới 1787. Nguyễn Huệ thắng thế nhưng đồng ý lời cầu hòa của vua anh. Nhân thời cơ đó, những lực lượng chống Tây Sơn trỗi dậy. Phía nam, Nguyễn Ánh nhờ việc giúp sức của người Pháp, trở về lấn chiếm Gia Định. Đông Định vương nhà Tây Sơn là Nguyễn Lữ bỏ Gia Định về Quy Nhơn. Phía bắc, những lực lượng thân họ Trịnh dựng lại người trong tông tộc là Trịnh Bồng lên ngôi, bị tướng Bắc Hà đã hàng Tây Sơn là Nguyễn Hữu Chỉnh từ Nghệ An lấy ra vượt mặt. Chỉnh ra cầm quyền ở Thăng Long mưu thay chúa Trịnh chống Tây Sơn. Mâu thuẫn giữa vua Lê và Tây SơnSửa đổiLê Chiêu Thống lên ngôi trong toàn cảnh chúa Trịnh vừa bị diệt, muốn lấy lại quyền hành về tay, nhưng liên tục bị những tướng áp dụng để lập lại Chúa Trịnh. Lê Chiêu Thống triệu Nguyễn Hữu Chỉnh về đánh trừ được họ Trịnh thì lại đến lượt Nguyễn Hữu Chỉnh lộng hành. Lúc đó Tây Sơn không hề ở Bắc Hà nhưng vẫn giữ đất Nghệ An, mà cương thổ cũ của Đàng Ngoài là tới sông Gianh thuộc Bắc Bố Chính (Quảng Bình). Vua Lê Chiêu Thống tuy không thích việc Nguyễn Hữu Chỉnh chuyên quyền nhưng lại đồng thuận với ông ta trên 2 điểm[16][17]:
Do đó, Lê Chiêu Thống đống ý với Nguyễn Hữu Chỉnh trong việc cử Trần Công Xán vào Phú Xuân đòi Nguyễn Huệ đất Nghệ An. Nguyễn Huệ không bằng lòng “trả” Nghệ An, điều thêm quân ra Nghệ An cho Vũ Văn Nhậm để sẵn sàng đánh ra Bắc. Trong khi đó tình hình Bắc Hà vẫn rối ren, Nguyễn Hữu Chỉnh vẫn phải lo đánh dẹp những lực lượng thân họ Trịnh. Tháng 11 năm 1787, Nguyễn Huệ sai Ngô Văn Sở hợp sức với Vũ Văn Nhậm mang quân ra Bắc. Nguyễn Hữu Chỉnh mang quân ra đánh bị thua to. Tháng 12 năm 1787, Vũ Văn Nhậm tiến vào Thăng Long, Lê Chiêu Thống cùng Chỉnh chạy sang Bắc Giang, đóng ở Mục Sơn. Chỉnh bị quân Tây Sơn đuổi theo kịp, bắt được và giết chết. Vũ Văn Nhậm tiến quân đi đánh tan những lực lượng phò Lê rồi sai người đi mời vua Lê về kinh. Vua Lê không thuận, vẫn hô hào quân những trấn Bắc Hà cần vương chống Tây Sơn. Bắc Hà rối loạn, những lực lượng thân vua Lê, thân họ Trịnh cũ và quân đội Tây Sơn đánh lẫn nhau. Trong lúc tướng Tây Sơn là Phạm Văn Tham đang cầm cự với quân Nguyễn Ánh ở Nam Bộ, Vũ Văn Nhậm lại chuyên quyền có ý chống lại Nguyễn Huệ ở Thăng Long. Tháng 4 năm 1788, Nguyễn Huệ ra Bắc lần thứ hai, giết chết Vũ Văn Nhậm. Nguyễn Huệ bèn dựng hoàng thân Lê Duy Cận làm giám quốc, sai Ngô Văn Sở cầm quân giữ Thăng Long và tháng 5 năm 1788 trở về Phú Xuân để sẵn sàng Nam tiến đánh Nguyễn Ánh theo thỉnh cầu của vua anh Nguyễn Nhạc. Quân Thanh sẵn sàng lực lượngSửa đổiQuân Thanh thời Càn Long Lực lượng phù trợ Lê Duy Kỳ (tên khác của Lê Chiêu Thống) thất thế. Tháng 5 năm 1788, Lê Duy Kỳ cùng những bầy tôi sang Long Châu cầu viện nhà Thanh phát binh đánh Tây Sơn. Tháng 7 năm 1788, Lê Chiêu Thống ở Kinh Bắc cũng sai người sang Trung Quốc cầu viện. Càn Long muốn nhân thời cơ lấn chiếm Đại Việt bèn sai Tổng đốc Lưỡng Quảng là Tôn Sĩ Nghị mang khoảng chừng 29 vạn quân và dân binh (xem phần “#Các ý kiến rất khác nhau về số quân Thanh” phía dưới), gồm những đội binh kêu gọi từ Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam và Quý Châu hộ tống Lê Chiêu Thống về Đại Việt với danh nghĩa phù Lê. Quân Thanh chia thành 3 đường tiến sang Đại Việt:
Cả ba đạo quân xuất phát vào thời gian cuối thời điểm tháng 10 âm lịch năm 1788. Càn Long còn đặc cử Phúc Khang An chuyên trách phục vụ hầu cần. Theo sách Thánh vũ ký, phần Càn Long chinh phủ An Nam ký” của Ngụy Nguyên đời Thanh, Phúc Khang An đã thiết lập trên 70 đồn quân lương to lớn và kiên cố từ hai tuyến phố Quảng Tây và Vân Nam tới Thăng Long. Riêng đoạn đường từ ải Nam Quan tới Thăng Long, Khang An thiết lập 18 kho quân lương trong lúc Tôn Sĩ Nghị hành quân. Tổng số ngân sách mà nhà Thanh đã tiêu vào trận chiến ở Việt Nam là một trong những.346.508 lượng bạc, gồm có tỉnh Quảng Tây chi ra 1.057.322 lượng và tỉnh Vân Nam chi ra 289.186 lượng[18] Quân nhà Thanh điều động phần lớn là quân Lục Doanh người Hán, không phải quân Bát Kỳ Mãn Châu (lực lượng sẽ là tinh nhuệ nhất của nhà Thanh). Do vậy, có những ý kiến nhận định rằng Càn Long chủ quan, coi thường đối thủ cạnh tranh đối đầu cạnh tranh đối đầu, nếu ông dùng quân Bát Kỳ Mãn Châu thì trọn vẹn có thể giành thắng lợi. Nhưng thực ra thì không phải như vậy:
Khi nghe tin quân Thanh giúp Lê Chiêu Thống sang đánh Tây Sơn, Nguyễn Ánh (hậu duệ chúa Nguyễn, đang đánh với quân Tây Sơn ở Nam Bộ) đã sai Phạm Văn Trọng và Lâm Đồ[19] mang thư và chở 50 vạn cân gạo ra bắc để giúp quân Thanh, nhưng thuyền đi giữa đường bị đắm hết[20]. Tiền quân Tây Sơn vừa đánh vừa rút luiSửa đổiKhi quân Thanh tiến qua biên giới, quân lính Tây Sơn bỏ trốn hết khiến viên trấn thủ của Tây Sơn là Phan Khải Đức phải đầu hàng[21] Theo thư Lê Chiêu Thống gửi cho Tôn Sĩ Nghị, tổng số quân Tây Sơn đóng ở miền Bắc khoảng chừng 60 ngàn quân, trong số đó có 30 ngàn quân do bắt lính tại địa phương, không tồn tại lòng chiến đấu. Gươm và súng của quân đội nhà Tây Sơn. Ngô Văn Sở được tin quân Thanh kéo sang liền nhóm họp những văn võ quan nhà Lê Trung Hưng đưa một bức thư ký tên Giám Quốc Sùng Nhượng Công, Lê Duy Cẩn sang xin hoãn binh với Tôn Sĩ Nghị. Rồi những tướng Tây Sơn mở cuộc thảo luận. Nhiều người bàn dùng phục binh đánh quân Thanh như Lê Lợi diệt tướng Minh là Liễu Thăng, Lương Minh trước đó, duy Ngô Thì Nhậm chủ trương kế hoạch, nhử quân Thanh vào sâu trong nước, thủy quân rút về Biện Sơn trước, lục quân kéo vào đóng giữ núi Tam Điệp rồi phục vụ nhu yếu thông tin vào cho Bắc Bình Vương. Chiến lược này được chấp thuận đồng ý, binh sĩ những đạo đều được lệnh về hội ngay dưới cờ của Tiết Chế Ngô Văn Sở tại bờ sông Nhị vào năm hôm sau. Sở bàn kế hoạch lui quân. Ngô Văn Sở sai tướng chặn giữ bến đò Xương Giang chặn quân Thanh, và sai Phan Văn Lân đưa hơn 10 ngàn quân tinh nhuệ từ Thăng Long đi đánh. Quân Tây Sơn vượt sông Nguyệt Đức đánh vào quân Thanh đang đóng ở núi Tam Tầng, vây hãm doanh trại của Tôn Sĩ Nghị. Súng hỏa sang của quân Thanh bắn ra như mưa, đồng thời cung tên từ hai cánh phải và trái của quân Thanh cũng bắn ra, quân Tây Sơn chết thật nhiều. Tôn Sĩ Nghị lại phái một toán kỵ binh từ mạn thượng lưu vượt qua sông đánh úp lấy đồn Thị Cầu. Đồn này phát hỏa, Văn Lân cả sợ rút về.[22] Ngày 21 tháng 11 năm Mậu Thân (1788), thành Thăng Long bỏ ngỏ, quân của Nghị vào đóng và tướng doanh của Nghị đặt tại Tây Long Cung. Theo lời vua Thanh dặn, Sĩ Nghị lấy xong thành này rồi trao ấn cho Duy Kỳ, tấn phong làm An Nam quốc vương lấy lòng dân Đại Việt.[22]. Ngày 22, Sĩ Nghị làm lễ ở điện Kính Thiên để làm lễ sách phong cho vua Lê Chiêu Thống. Lê Chiêu Thống được tin quân Tây Sơn rút khỏi những trấn, bèn điều những tướng dưới quyền đi chiếm lại những nơi đó. Giữa tháng 11 năm 1788, quân Thanh tới bờ bắc sông Thương. Quân Tây Sơn rút về bờ nam nhưng chặt phá hết cầu và lấy hết thuyền bè. Theo sách Thánh vũ ký, phần “Càn Long chinh phủ An Nam ký” của Ngụy Nguyên, quân Thanh đã tổn thất quá nhiều mới bắc được cầu qua sông do đạn của quân Tây Sơn bắn sang trước lúc rút hẳn. Quân Thanh tiến đến Thị Cầu, Phan Văn Lân đã chặt cầu và tận dụng bờ nam cao hơn nữa bờ bắc mà bắn đại bác sang khiến quân Thanh mất 3 ngày (15 đến 17 – 11) không bắc nổi cầu. Nửa đêm 17 tháng 11, Phan Văn Lân mang một ngàn quân bản bộ theo khúc sông Cầu định tập kích trại Tôn Sĩ Nghị nhưng bị thiệt hại do hoả lực của quân Thanh bắn ra. Sau đó Văn Lân đụng độ tướng Thanh là Trương Triều Long ở Tam Tằng. Trong khi đó, lục quân của Ngô Văn Sở cũng rút về tới Ninh Bình cố thủ. Ngày 20 tháng 11, quân Tây Sơn đóng đồn từ Tam Điệp tới Biện Sơn, Ngô Văn Sở cho đô đốc Tuyết vào nam cấp báo với Bắc Bình vương Nguyễn Huệ. Tôn Sĩ Nghị tính chuyện truy kích Nguyễn Huệ nhưng Tôn Vĩnh Thanh tâu là Quảng Nam xa cách đô thị nhà Lê 2.000 dặm, dùng quân 1 vạn người thì phải cần 10 vạn phu vận tải lối đi bộ, cũng bằng từ Trấn Nam Quan đến thành họ Lê.[23] Quân Thanh đóng đồn phòng thủSửa đổiTôn Sĩ Nghị từ Tam Tằng tiến vào Thăng Long. Lê Duy Kỳ từ Kinh Bắc ra đón rồi cùng theo vào kinh thành. Không lâu sau, những đạo quân Vân – Quý và Điền châu cũng tiến vào hội binh. Theo những nhà nghiên cứu và phân tích[17], cuộc hành quân của Tôn Sĩ Nghị từ 28/10 tới 20/11 tức là mất 22 ngày mới tới Thăng Long, lâu hơn nhiều so với thời hạn 6 ngày mà Nghị từng dự liệu với Càn Long. Tôn Sĩ Nghị sắp xếp quân Thanh đóng ở phía nam tới phía tây thành Thăng Long, cho đạo quân Lưỡng Quảng đóng hai bờ sông Hồng, quân Điền châu đóng ở Khương Thượng, quân Vân Quý đóng ở Sơn Tây. Theo Khâm định Việt sử Thông giám cương mục của nhà Nguyễn, quân Thanh ở Thăng Long chểnh mảng phòng thủ, thường đi cướp bóc hãm hại dân Đại Việt nên bị oán ghét. Lê Duy Kỳ tiến hành thanh trừng những người dân hợp tác với Tây Sơn. Theo Đại Nam thực lục, Nguyễn Ánh ở Gia Định nghe tin quân Thanh vào Thăng Long cũng sai Phan Văn Trọng và Lâm Đồ mang thư và chở 50 vạn cân gạo ra cho quân Thanh nhưng giữa đường bị bão biển, khắp khung hình và gạo đều bị đắm hết. Tôn Sĩ Nghị ban sơ chủ quan, sau nghe lời chú ý quan tâm của những tướng dưới quyền Lê Duy Kỳ cũng quyết định hành động ngày 6 tháng Giêng sẽ ra quân đánh Tây Sơn. Để tăng cường phòng thủ, Nghị sắp xếp đồn Ngọc Hồi ở Thanh Trì (Tp Hà Nội Thủ Đô), đồn Hà Hồi ở Thường Tín (Tp Hà Nội Thủ Đô), đồn Nhật Tảo ở Duy Tiên (Hà Nam) và đồn Nguyệt Quyết huyện Thanh Liêm (Hà Nam). Quân Cần vương của Duy Kỳ do Hoàng Phùng Tứ chỉ huy cũng rất được điều từ Sơn Tây xuống Gián Khẩu làm tiền đồn chặn quân Tây Sơn. Quân Thanh đồng thời cũng tụ tập thêm được những Hoa Kiều sống ở phía Bắc Đại Việt được chừng một vạn người đóng thành một trại, nhóm quân này ỷ thế đi cướp phá và hãm hiếp không kiêng sợ gì ai[6]. Dù Tôn Sĩ Nghị có ra sắc lệnh nghiêm quân kỷ nhưng vì quân kiêu nên cũng không hề công dụng lắm[24]. Vua Quang Trung bắc tiếnSửa đổiRa quânSửa đổiBốn ngày từ khi xuất phát tại Biện Sơn, ngày 24 tháng 11, đô đốc Tuyết vào tới Phú Xuân cấp báo với Bắc Bình vương Nguyễn Huệ. Trước sự sợ hãi của nhiều người khi nghe đến tin quân Thanh kéo vào nước Việt, Nguyễn Huệ cười mà nói[25]: “Chó Ngô (chỉ quân Thanh) thì là cái thá gì, chúng đến đây chỉ để tự đi vào chỗ chết. Việc gì mà phải nôn nả làm vậy?” Ngay ngày hôm sau, ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân (22 tháng 12 năm 1788), Nguyễn Huệ xuất quân tiến ra Bắc Hà. Xuất quân sớm như vậy vì quân đội của ông thực ra đã có sẵn sàng tác chiến từ trước. Từ giữa năm 1788, tướng Tây Sơn ở Nam Bộ là Phạm Văn Tham không chống nổi những tướng của Nguyễn Ánh, thành Gia Định thất thủ và tiếp sau đó liên tục thua trận, đang cố cầm cự ở Ba Thác. Nguyễn Nhạc tuổi cao lắm bệnh, bất lực không thể cứu ứng Nam Bộ, nên nhường ngôi nhà vua, đất đai và binh quyền cho Nguyễn Huệ, chỉ xưng là Tây Sơn vương và thỉnh cầu ông vào cứu[26]. Để sẵn sàng Nam tiến, Nguyễn Huệ tổng động viên binh lính ở Thuận Hoá, ngày đêm tập luyện. Tuy nhiên đạo quân Thanh hùng mạnh từ phương bắc trở thành rủi ro đáng tiếc tiềm ẩn tiềm ẩn to nhiều hơn và Nguyễn Huệ quyết định hành động bắc tiến trước. Để lấy danh nghĩa chính thống, Nguyễn Huệ quyết định hành động lên ngôi Hoàng đế. Nguyễn Huệ tức tốc cho lập đàn Nam Giao ở núi Bân (cạnh núi Ngự Bình) làm lễ tế trời đất, tuyên bố lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu Quang Trung (nghĩa là ánh sáng ở TT), nhằm mục tiêu vào trong thời gian ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân (22/12/1788 dương lịch). Chiếu lên ngôi của vua Quang Trung viết[27]: Nước Việt ta từ đời Đinh, Lê, Lý, Trần kiến thiết xây dựng ra nước cho tới ngày này, thánh minh dấy lên không phải là một họ, nhưng thịnh suy, dài ngắn, vận mệnh do trời, không phải sức người tạo ra được. Trước đây nhà Lê mất cơ quan ban ngành, họ Trịnh và cựu Nguyễn chia bờ cõi. Hơn hai trăm trong năm này, kỷ cương rối loạn, vua Lê chỉ là hư vị, cường thần tự ý vun trồng, giềng mối của trời đất một phen rơi xuống không thổi lên được, chưa tồn tại lúc nào hư hỏng quá như thời gian lúc bấy giờ vậy. Vả lại mấy năm gần dây, nam bắc gây việc binh đao, nhân dân rơi vào chốn bùn than Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử đăng bài Hịch đánh Thanh[28], tên bài hịch là “Lời hiếu dụ tướng sỹ” được vua Quang Trung đọc tại lễ lên ngôi:
Một giai thoại được truyền lại về việc Quang Trung lập kế để động viên quân sĩ trước lúc ra quân đánh quân Thanh, tại lễ đăng quang ở Phú Xuân. Sau lúc làm lễ, Quang Trung sai mang lại cái mâm, trên để những đồng xu tiền, có phủ vải điều, rồi tuyên bố với quân sĩ: “Ba quân hãy cùng ta quan sát, nếu cả hai trăm đồng xu tiền này đều sấp, thì đó là điềm trời báo toàn bộ chúng ta đại thắng. Ngược bằng, có đồng ngửa, thì đó là đại sự của toàn bộ chúng ta có điều trắc trở.” Tăng quân ở Nghệ AnSửa đổiNgày 29 tháng 11, quân Tây Sơn đến Nghệ An, đóng lại hơn 10 ngày để tuyển thêm quân. Về thái độ của dân chúng, sử gia Nguyễn Khắc Thuần trong sách Đại cương Lịch sử cổ trung đại Việt Nam ghi thì thanh niên địa phương nô nức gia nhập hàng ngũ Tây Sơn[29] còn sử gia Tạ Chí Đại Trường trong sách Lịch sử nội chiến Việt Nam 1771- 1802 thì dẫn lại thư giáo sĩ Longer là người đương thời gởi cho Julliard cho biết thêm thêm quân Tây Sơn bắt lính “nóng bức đến nỗi người ta không biết trốn vào đâu để tránh quân dịch. Các kẻ sai nha đem chó theo để tìm người trong khu rừng rậm cạnh bên như người ta tìm thú: người ta lấy dao xỉa vào những đống rơm vốn để làm đun nấu”[30] Số quân mới tuyển ở Nghệ An không được huấn luyện, cũng không tồn tại kinh nghiệm tay nghề trận mạc nên kĩ năng chiến đấu kém xa lực lượng Tây Sơn chính quy, nhưng vẫn đang còn ích trong việc vận tải lối đi bộ lương thực, xây cất doanh trại… Cứ 3 suất đinh thì lấy 1 suất lính, sau thuở nào hạn ngắn, quân Tây Sơn đã có thêm hàng vạn người. Theo Đại Nam chính biên liệt truyện, số quân cũ và mới của Quang Trung là 10 vạn và hơn 100 voi chiến[2]. Quang Trung tổ chức triển khai duyệt binh và tiến ra bắc. Ngày 20/12, Quang Trung tiến đến Tam Điệp và tán thành chủ trương rút lui của Ngô Thì Nhậm. Theo sách Lê triều dã sử, sở dĩ quân Tây Sơn hành quân nhanh gọn vì Nguyễn Huệ đã sắp xếp 3 người 1 tốp thay nhau 2 người cáng 1 đi suốt ngày đêm. Theo Quân doanh kỳ lược của Trần Nguyên Nhiếp (là bí thư dưới quyền Tôn Sĩ Nghị), nghe tin thám tử quân Thanh những nơi chạy về báo Nguyễn Huệ đang lấy thêm lính Thanh – Nghệ và sắp đánh ra bắc, Tôn Sĩ Nghị vội cho quân tập dượt để sẵn sàng tác chiến, sai phó tướng Hứa Thế Hanh trực tiếp chỉ huy mặt trận phía nam Thăng Long[31]. Chia đường xuất phátSửa đổiTheo những nhà nghiên cứu và phân tích tân tiến, Quang Trung chia quân làm 5 đạo: tiền, hậu, tả, hữu và trung quân. Ông phân quân cũ cho những tướng còn tự tôi chỉ huy số quân mới tuyển để những người dân lính mới yên tâm chiến đấu. Các giáo sĩ phương Tây khi nhìn thấy đạo quân Tây Sơn này đã mô tả họ tàn tạ như những bệnh nhân do cuộc hành quân gấp gáp (dù họ chưa phải chiến đấu trận nào).
Đến nay, còn nhiều tranh luận chưa đi đến thống nhất giữa những nhà nghiên cứu và phân tích về người chỉ huy đánh đồn Khương Thượng. Giáo sư Nguyễn Phan Quang trong “Phong trào nông dân Tây Sơn” nêu những giả thuyết rất khác nhau. Có thuyết nhận định rằng người chỉ huy là đô đốc Long, có ý kiến nhận định rằng đó là tướng Đặng Tiến Đông. Lại có ý kiến nhận định rằng hai người là một; và ý kiến khác nhận định rằng đô đốc Long thực ra tên là đô đốc Mưu…[32]. Ngày 30 tháng chạp, Quang Trung cho quân ăn tết trước rồi hạ lệnh tiến quân. Ông hẹn với ba quân mồng 7 tháng Giêng âm lịch sẽ vào ăn tết ở Thăng Long. Quang Trung đại phá quân ThanhSửa đổiXem thêm: Trận Hà Hồi, Trận Ngọc Hồi, Trận Q.. Đống Đa, Trận Thăng Long Diệt tiền đồnSửa đổiĐêm trừ tịch (30 tết), từ phòng tuyến Tam Điệp, quân Tây Sơn xuất phát. Đạo quân do Quang Trung chỉ huy vượt sông Giao Thuỷ đánh đồn Gián Khẩu của quân cần vương nhà Lê. Quân Lê tan vỡ, Hoàng Phùng Tứ bỏ chạy. Theo Đại Nam chính biên liệt truyện, quân Quang Trung thần tốc tiến lên bắt gọn đám quân Thanh thám thính và tiêu diệt những đồn bắc sông Nguyệt Quyết và đồn Nhật Tảo (Duy Tiên). Do đạo quân Tây Sơn hành quân nhanh và những đám quân thám thính bị tóm gọn, quân Thanh từ đồn Hà Hồi tới Thăng Long không biết gì về cử động của quân Tây Sơn. Dụ hàng đồn Hà Hồi, áp sát Ngọc HồiSửa đổiNgày 3 tháng Giêng, quân Tây Sơn tiến đến Hà Hồi cách Thăng Long khoảng chừng 20km. Quang Trung cho quân vây chặt đồn rồi sai bắc loa lôi kéo quân Thanh đầu hàng. Quân Thanh bị bất thần trước yếu tố áp sát quá nhanh của quân Tây Sơn, không kịp kháng cự, đều ra hàng. Ngày 5 tháng Giêng, Quang Trung tiến đến đồn Ngọc Hồi. Hứa Thế Hanh ở đây nghe tin đồn Hà Hồi bị diệt vội báo về Thăng Long. Tôn Sĩ Nghị vội điều Thang Hùng Nghiệp mang quân ra tăng viện, lại đặc sai 20 kỵ binh phải thay nhau chạy đi chạy lại văn bản báo cáo giải trình tình hình. Nhưng khi tiến quân tới Ngọc Hồi, Quang Trung không đánh ngay. Quân Thanh bị động cũng không đủ can đảm giao tranh trước nhưng cũng không biết bị đánh lúc nào. Cả ngày mùng 4, Quang Trung chỉ cho quân hư trương thanh thế để uy hiếp tinh thần quân Thanh và gây sự để ý của quân Thanh tới đạo quân do ông chỉ huy vào mặt trận Ngọc Hồi để tạo Đk cho yếu tố bất thần của những đạo quân đô đốc Long và đô đốc Bảo. Chính Tôn Sĩ Nghị nghe văn bản báo cáo giải trình của kỵ binh cũng trở nên hút vào đồn Ngọc Hồi mà không sở hữu và nhận ra rủi ro đáng tiếc tiềm ẩn tiềm ẩn từ cánh quân của đô đốc Long. Diệt đồn Đống ĐaSửa đổiKhi Quang Trung diễu võ ngoài đồn Ngọc Hồi, đô đốc Long đang trên đường bắc tiến hướng tới Sơn Tây – nơi có đạo quân Vân Quý của Ô Đại Kinh – thì bất thần rẽ sang làng Nhân Mục nay thuộc xã Nhân Chính và Khương Đình và nửa đêm bất thần tập kích đồn Khương Thượng của Sầm Nghi Đống. Theo Thánh vũ ký của Nguỵ Nguyên, những đội voi của Tây Sơn đều phải có đại bác trên sống lưng nã vào đồn. Quân Thanh bị đánh bất thần trong đêm tối, chết thật nhiều, tan vỡ bỏ chạy. Sầm Nghi Đống thấy không thể giữ được đồn bèn tự sát trên đài chỉ huy ở Loa Sơn (Khu vực phố chùa Bộc – Tp Hà Nội Thủ Đô lúc bấy giờ)[33]. Một số tài liệu mới mà giới nghiên cứu và phân tích đưa ra mới gần đây lại cho thông tin khác về diễn biến trận diệt đồn Khương Thượng. Theo đó, khi quân Thanh bị diệt đáng kể, Sầm Nghi Đống bỏ chạy lên cố thủ tại đài chỉ huy ở Loa Sơn. Đô đốc Long chia quân làm 2: một cánh đánh sang Nam Đồng để tiến vào Thăng Long, một ít quân tiếp tục vây hãm Loa Sơn. Sầm Nghi Đống không tự vẫn ngay mà cố thủ trên đài chờ cứu viện của Tôn Sĩ Nghị, nhưng tới ngày hôm sau không tồn tại quân cứu, Sầm mới vô vọng và thắt cổ tự sát[34]. Nhà thơ đương thời Ngô Ngọc Du đã làm bài thơ Loa Sơn điếu cổ có câu: Thánh Nam thập nhị kình nghê quán Dịch: Thánh nam xác giặc mười hai đống Khu vực Khương Thượng và xung quanh, do xác quân Thanh chết quá nhiều, sau chất thành 12 gò cao, có đa mọc um tùm gọi là Gò Q.. Đống Đa. Trận diệt đồn Khương Thượng cũng còn gọi là trận Q.. Đống Đa. Tiến vào Thăng LongSửa đổiHạ xong đồn Khương Thượng, ngay trong đêm mùng 4, đô đốc Long tiến vào bắn phá đồn Nam Đồng ở phía tây thành Thăng Long. Khi Tôn Sĩ Nghị nhận được tin báo việc đồn Khương Thượng thất thủ thì đô đốc Long đã diệt xong đồn Nam Đồng và tiến vào đánh bản doanh của Tôn Sĩ Nghị ở Thăng Long. Tôn Sĩ Nghị vội vàng tháo chạy. Các tài liệu cũ đều mô tả cảnh hỗn loạn của quân Thanh. Đại Nam chính biên liệt truyện viết: “Tôn Sĩ Nghị đóng trên bãi cát, được tin bại trận vội vàng cưỡi ngựa một mình chạy về bắc. Tướng sĩ thấy vậy tranh nhau qua cầu mà chạy, cầu đứt, lăn cả xuống sông, chết đến vài vạn người, làm cho nước sông không chảy được.” Theo Thánh vũ ký của Nguỵ Nguyên nhà Thanh: “Sĩ Nghị chạy trốn qua được bờ bắc sông Phú Lương (Tức sông Hồng) liền cắt đứt cầu phao khiến những đạo quân của Hứa Thế Hanh và Trương Triều Long bị bỏ lại ở bờ nam. Do đó hơn 1 vạn người vừa tướng vừa quân xô nhau nhảy xuống sông để bơi sang bờ bắc và đều bị chết đuối cả”[35][36]. Lê Chiêu Thống được tin Sĩ Nghị đã bỏ chạy, vội dắt gia quyến đuổi theo, ra đến bờ sông thì cầu đã gãy, phải men theo bờ sông phía Nghi Tàm, lấy được chiếc thuyền đánh cá chèo sang được bên kia sông Hồng. Em Lê Chiêu Thống là Lê Duy Chỉ được sai giữ cửa ô Yên Hoa (Tức Yên Phụ ngày này) thấy Chiêu Thống đã chạy, cũng bỏ chạy lên Tuyên Quang. Trận Ngọc HồiSửa đổiSáng mồng 5 Tết, khi đô đốc Long tiến vào Thăng Long, Tôn Sĩ Nghị đã bỏ chạy, Quang Trung hạ lệnh đánh đồn Ngọc Hồi. Theo Đại Nam chính biên liệt truyện, đồn này được Sĩ Nghị quan tâm phòng thủ nhất, có phó tướng Hứa Thế Hanh đích thân ra chỉ huy. Đồn có hỏa lực mạnh, xung quanh có địa lôi và chông sắt. Để phá hỏa lực địch, Quang Trung làm sẵn 20 tấm mộc đỡ đạn có tẩm rơm ướt dàn đi trước. Theo Lê quý kỷ sự và Việt sử Thông giám cương mục, mờ sáng mùng 5, 100 voi chiến Tây Sơn tiến lên. Ngựa quân Thanh sợ voi lui lại, giẫm lên nhau, lùi về đồn. Quân Thanh không đủ can đảm ra nữa, cố thủ trong đồn bắn ra. Quang Trung chia tượng binh làm hai cánh, một cánh vòng qua sau đồn Ngọc Hồi, đóng phía đông đê Yên Duyên để chặn đường địch rút; cánh kia là bộ binh dùng mộc tẩm rơm ướt tiến lên hãm đồn. Theo sách Hoàng Lê nhất thống chí, đấy là lực lượng cảm tử gồm 600 người, chia thành 20 tốp. Họ mang dao ngắn bên hông, khiêng một tấm mộc lớn được làm bằng gỗ phía ngoài quấn rơm ướt và 20 người cầm vũ khí tiến theo sau. Hai mươi toán quân cảm tử dàn ngang thành thế trận chữ “Nhất”, phía trước là 20 tấm mộc kết liền với nhau như bức tường thành di động, xông thẳng vào trận địa của quân Thanh. Những tấm mộc bọc rơm ướt có tác dụng chống đỡ đạn súng hỏa mai và cung tên của quân Thanh từ trong chiến lũy bắn ra, che chở cho lực lượng xung kích tiến lên. Đại bác quân Thanh bị vô hiệu lực hiện hành. Quân Tây Sơn dùng đoản đao và những thứ vũ khí mang theo xông lên phá cửa lũy, tiến vào đồn hỗn chiến. Quân nòng cốt Tây Sơn dưới sự chỉ huy của vua Quang Trung cũng theo này mà nhảy vào đồn. Từ hai bên sườn đồi Ngọc Hồi, đội tượng binh cũng đồng thời đánh ập vào. Đại Nam chính biên liệt truyện mô tả, quân Thanh không chống nổi chạy tản ra tứ phía, lại giẫm phải địa lôi chính mình đặt từ trước nên bị chết thật nhiều. Đồn Ngọc Hồi bị quân Tây Sơn thiêu cháy. Quân Thanh từ đồn Ngọc Hồi chạy tới đê Yên Duyên, trông thấy phục binh Tây Sơn chặn đánh, phải đuổi theo đường Vịnh Kiều[37] trốn về Thăng Long. Nhưng chạy tới nửa đường thì gặp cánh quân đô đốc Bảo đánh tới từ làng Đại Áng. Quân Thanh phải chạy lên làng Quỳnh Đô[38] định trốn vào đầm Mựcthuộc làng Quýnh Đô.Quân Tây Sơn lùa voi chiến xuống đầm, đạp chết hàng vạn Quân Thanh[39] Như vậy toàn bộ khối mạng lưới hệ thống đồn do Tôn Sĩ Nghị thiết lập để phòng thủ ở nam Thăng Long đều bị quân Tây Sơn tiêu diệt. Theo Thánh vũ ký của Nguỵ Nguyên, những tướng Hứa Thế Hanh, Trương Triều Long, Thượng Duy Thăng đều tử trận. Khải hoànSửa đổiCũng theo Thánh vũ ký, đạo quân Vân Nam – Quý châu đóng ở Sơn Tây được tin những đồn thất thủ, tướng Ô Đại Kinh không giao chiến trận nào đã bỏ chạy, nhờ tướng người Việt là Hoàng Văn Đồng dẫn đường chạy về Trung Quốc. Chiều mồng 5 tết (tức 30 tháng một năm 1789[40]), Quang Trung và đô đốc Bảo tiến vào Thăng Long trong sự đón nhận của nhân dân, đô đốc Long ra đón rước vào thành. Đại Nam chính biên liệt truyện mô tả, áo bào của Quang Trung sạm màu khói súng. Trên đường tháo chạy, Tôn Sĩ Nghị bị hai cánh quân Tây Sơn của đô đốc Tuyết và đô đốc Lộc chặn đánh ở Thành Phố Hải Dương và Phượng Nhãn, tơi tả chạy về, bỏ lại cả quân ấn, kỳ bài, sắc thư. Trần Nguyên Nhiếp là bí thư dưới quyền Nghị sau này mô tả: Sĩ Nghị cùng Nguyên Nhiếp đi lạc lối, quanh co nhiều chỗ, bị đói khát 7 ngày đêm mới tới ải Nam Quan. Theo giáo sĩ De la Bissachere ở Việt Nam khi đó, số quân Thanh kịp theo Nghị qua bên kia biên giới chỉ có tầm khoảng chừng 50 người. Lê Chiêu Thống cùng một số trong những cận thần cũng vội đuổi theo Nghị thoát sang bên kia biên giới. Như vậy sớm hơn dự kiến, chỉ trong vòng 6 ngày, quân Tây Sơn đã đánh tan quân Thanh. Cánh quân Điền châu gần như thể bị diệt trọn vẹn, cánh quân Lưỡng Quảng nòng cốt bị thương vong nặng và tan rã gần hết, riêng quân Vân Nam – Quý châu không giao chiến mà rút êm về nước. Quang Trung đã hẹn với ba quân mồng 7 vào ăn tết ở Thăng Long nhưng chỉ đến mồng 5, quân Tây Sơn đã khải hoàn ở kinh thành. Ngô Ngọc Du là một nhà thơ đương thời, đã ghi lại không khí tưng bừng của ngày thắng lợi oanh liệt đó của Tây Sơn trong một bài thơ: Giặc đâu tàn bạo sang điên cuồng Các đồn bị hạSửa đổi
Tế quân ThanhSửa đổiTrong hồi ký của giáo sĩ Pierre-Jacques Lemonnier de la Bissachère (1764-1830) xuất bản tại Pháp năm 1812 nhận định rằng quân Thanh bị giết tại trận khoảng chừng 20.000 người (chưa tính số bị thương, bị tóm gọn hoặc đào ngũ)[9] Thư đề ngày 20-1-1790 của giáo sĩ La Mothe gửi cho giáo sĩ Blandin thì ghi rằng “50.000 binh lính Trung Hoa đã chết vì tay Tiếm vương năm ngoái chỉ trong một cuộc giao chiến”[41] Không rõ những giáo sĩ lấy số liệu từ đâu, nhưng trọn vẹn có thể xác lập quân Thanh bị thiệt hại rất nặng, có lẽ rằng khoảng chừng một nửa lực lượng đã biết thành tiêu diệt hoặc bị tóm gọn. Sau trận chiến, Quang Trung ra lệnh thu nạp và nuôi dưỡng hàng vạn tù binh Mãn Thanh[42]. Ông sai thu nhặt xương cốt quân Thanh tử trận, chôn thành những gò đống, lập đàn cúng tế và sai Vũ Huy Tấn soạn văn tế, biểu thị sự thương xót với những quân, dân Trung Quốc chết xa nhà. Bài văn có đoạn: Nay ta Kết quả và ý nghĩaSửa đổiChiến thắng Kỷ Dậu 1789 là một trong những trận chiến chống ngoại xâm nổi tiếng nhất trong lịch sử dân tộc bản địa Việt Nam và cũng rất được những nhà nghiên cứu và phân tích Việt Nam như Nguyễn Lương Bích và Phạm Ngọc Phụng định hình và nhận định là chiến công oanh liệt nhất của nhà vua bách chiến bách thắng Nguyễn Huệ[44]. Chiến thắng này đã chặn lại ý định xâm chiếm Đại Việt của nhà Thanh dưới thời Càn Long thịnh trị. Sử quan nhà Nguyễn là Trần Trọng Kim năm 1920 cũng phải ngợi khen chiến tích này:
Hành quân thần tốc, hạ chớp nhoáng liên tục gần 10 đồn, tiêu diệt lực lượng địch đông hơn từ cường quốc phương bắc. Tất cả chỉ trình làng trong 6 ngày. Yếu tố bất thần trong giải pháp của Quang Trung luôn khiến quân Thanh lâm vào cảnh thế bị động. Bất ngờ kế hoạch mà ông giành được là đánh địch ở không khí và thời hạn do mình lựa chọn[45]. Đầu tiên là việc ra quân thần tốc. Các giáo sĩ cũng ghi nhận là trong lần ra Bắc thứ hai, Nguyễn Huệ “tiến như vũ bão… từ Thanh Hoá ra Ninh Bình chỉ mất có một ngày, không quản đường xa khó nhọc đã làm chết nhiều ngựa voi của ông, trong lúc người khác phải mất ba bốn ngày”. Tôn Sĩ Nghị ban sơ yên tâm với khối mạng lưới hệ thống đồn phòng thủ liên tục nương tựa nhau, định cho quân nghỉ ngơi tới mùng 6 tết mới ra quân đánh Tây Sơn. Nhưng Tây Sơn hành quân quá nhanh tới Tam Điệp ngay từ trước Tết nguyên đán buộc Nghị phải thay đổi kế hoạch. Từ chủ định tiến công, Nghị không kịp điều quân tiến hành ý định này mà phải phòng thủ chờ quân Tây Sơn đến.[46]. Trong suốt cuộc hành quân bắc tiến, đạo quân nòng cốt do đích thân Quang Trung chỉ huy đó là đạo quân giao chiến nhiều nhất. Liên tiếp hạ những đồn Gián Khẩu, Nguyệt Quyết, Nhật Tảo rồi Hà Hồi, tưởng chừng mũi chủ công đang đà thắng trận này sẽ sấn ngay tới Ngọc Hồi dù nó kiên cố. Thấy quân Tây Sơn tiến nhanh và đã biết thành choáng váng vì mất liền mấy đồn từ Hà Hồi về phía nam nên quân Thanh sẵn sàng nghênh chiến ở Ngọc Hồi ngoài cửa ngõ Thăng Long. Việc Quang Trung hành quân quá nhanh và hạ những đồn tiền tuyến cũng quá mau lẹ khiến quân Thanh ở Ngọc Hồi bị động, không đủ can đảm dữ thế chủ động tác chiến. Nhưng đó đó là lúc biến ảo nhất trong giải pháp quân sự chiến lược của Quang Trung tại lần bắc tiến này. Theo sách của Nguyễn Lương Bích, Phạm Ngọc Phụng thì mũi tên bay rất nhanh, từng xuyên thủng liên tục những rào cản thì bất chợt tạm ngưng trước đồn Ngọc Hồi[47]. Quang Trung bất thần hoãn binh không đánh, chỉ phô trương thanh thế cho đạo quân của đô đốc Long, tưởng như sẽ đánh thẳng vào đạo quân Vân Quý của Ô Đại Kinh ở Sơn Tây thì lại rẽ bước ngoặt quyết định hành động vào đồn Khương Thượng – sườn tây Thăng Long – chỗ Tôn Sĩ Nghị không ngờ đến. Cuộc tập kích của đô đốc Long bất thần và mạnh mẽ và tự tin tới mức khi đồn Ngọc Hồi – lá chắn tin tưởng nhất của Nghị – chưa mất, Nghị đã bỏ chạy. Việc quân đô đốc Long tung hoành trong kinh thành khiến đồn Ngọc Hồi dù kiên cố tuy nhiên quân Thanh ở này cũng giảm nhiều nhuệ khí khi kinh thành sau sống lưng đã biết thành hạ – không hề được che chắn và tiếp viện từ đại doanh của chủ tướng họ Tôn. Mục tiêu trước mắt đạo quân nòng cốt của Quang Trung, chỉ với sau một hôm, lại không hề là trở ngại lớn như ban sơ nữa. Đó mới là lúc ông thúc quân lấn chiếm đồn. Như vậy là đạo quân nòng cốt tác chiến nhiều nhất lại không phải là đạo quân đâm nhát kiếm quyết định hành động vào quân Thanh để giải phóng Thăng Long. Đại doanh tan vỡ, chủ tướng Tôn Sĩ Nghị bỏ chạy khiến quân Vân Quý không đánh phải tự rút. Trường hợp này tương tự như đạo quân Vân Nam của Mộc Thanh tháo chạy trong khởi nghĩa Lam Sơn, khi đạo quân nòng cốt của Liễu Thăng đã biết thành diệt. Theo những nhà nghiên cứu và phân tích Nguyễn Lương Bích, Phạm Ngọc Phụng, giải pháp phối hợp vừa gấp gáp vừa thư thả, giương đông kích tây, tránh chỗ mạnh nhằm mục tiêu chỗ yếu hơn ở Ngọc Hồi – Khương Thượng đã đạt đến đỉnh điểm trong nghệ thuật và thẩm mỹ quân sự chiến lược của Nguyễn Huệ[48]. Trong 3 đạo quân Thanh, cánh quân phần đông nhất, mạnh nhất là của Tôn Sĩ Nghị và cánh quân tối thiểu, yếu nhất đó là quân Điền châu của Sầm Nghi Đống. Quang Trung đã chọn tiềm năng đánh vào quân Điền châu vừa yếu nhất lại vừa dùng kỳ binh đánh bất thần, vào thời gian nửa đêm nên kĩ năng thắng lợi rất cao. Xét trên toàn cục, tuy lực lượng thấp hơn (10 vạn so với 20 vạn), nhưng do biết triệu tập binh sĩ đánh vào những khu vực then chốt của địch nên quân Tây Sơn thực tiễn chỉ đương đầu với mức già nửa số quân Thanh sang Đại Việt, nên lực lượng tương đối cân đối. Quang Trung đang không dàn lực lượng tác chiến cùng lúc với toàn bộ những cánh quân Thanh (không đánh cánh quân Vân Quý của Ô Đại Kinh) mà vẫn đang còn thắng lợi lớn trên toàn mặt trận, đuổi được quân Thanh thoát khỏi bờ cõi. Những trận kịch chiến ở Khương Thượng (hay Q.. Đống Đa) và Ngọc Hồi là lớn số 1, ác liệt nhất, mang tính chất chất quyết định hành động nhất trong toàn bộ chiến dịch bắc tiến đánh quân Thanh của Quang Trung. Vì vậy, tuy nhiên chiến dịch phá quân Thanh còn nhiều trận đánh khác nhưng đời sau vẫn thường gọi trận chiến này là trận Ngọc Hồi – Q.. Đống Đa. Nhà nghiên cứu và phân tích Hồ Bạch Thảo nhận định:[49]
Trận Ngọc Hồi – Q.. Đống Đa chấm hết sự tồn tại của nhà Hậu Lê. Lê Duy Kỳ chạy sang lưu vong rồi chết ở Yên Kinh. Vua Tây Sơn – nhà vua Quang Trung tiếp sau đó không lâu chính thức được nhà Thanh công nhận, trở thành người quản trị và vận hành Bắc Hà. Chiến thắng này cũng ghi lại bước tăng trưởng cực thịnh – dù không dài – của nhà Tây Sơn. Các ý kiến rất khác nhau về số quân ThanhSửa đổiSố quân Thanh sang Đại Việt được ghi chép trong những sử sách của Việt Nam, của Trung Quốc, cũng như của người phương Tây đương thờicó những điểm khác lạ rất rộng. Các nhà nghiên cứu và phân tích Nguyễn Phan Quang, Tạ Chí Đại Trường, Trần Gia Phụng đã có những tổng hợp về những nguồn tài liệu tương quan tới yếu tố này; nguồn tài liệu do những nhà nghiên cứu và phân tích Việt Nam dẫn ra khá tương tự[50] Sự khác lạ giữa những số liệu do nhiều nguyên nhân rất khác nhau: việc phao tin phóng đại hoặc che giấu bớt lực lượng của những bên, không khí chiến dịch khá rộng (chỉ tính số quân Thanh đóng ở khu vực tác chiến hay tính cả lực lượng vận tải lối đi bộ phục vụ hầu cần ở phía sau), và cả sự phức tạp trong phương pháp tính thành phần của quân Thanh (sử Trung Quốc chỉ ghi rõ số quân chính quy nhưng không ghi rõ số lượng quân địa phương, dân binh đi theo tương hỗ, cũng không ghi rõ về số lượng quân Lê Chiêu Thống, quân Hoa kiều trợ giúp nhà Thanh). Việt NamSửa đổi
Theo bài chiếu, tổng số quân Thanh là 29 vạn. Theo ý kiến một nhà nghiên cứu và phân tích Việt Nam là Nguyễn Phan Quang, bài Chiếu phát phối hàng binh trong nước của Quang Trung là một văn bản chính thức, đương thời, uy tín.[51] còn theo ý kiến của một người Việt Nam khác là Trần Gia Phụng thì 29 vạn quân tuy do Ngô Thời Nhậm là người trong cuộc viết nhưng đấy là một văn thư có tính tuyên truyền nên cũng chưa phải sát với thực tiễn.[52] Có tài liệu Việt Nam khác thì viết rằng lực lượng quân Thanh xâm lăng Đại Việt có tầm khoảng chừng hai mươi vạn (tức 200.000 quân). Đối chiếu với những tài liệu Trung Quốc thì số lượng 20 vạn là khá hợp lý (tài liệu Trung Quốc ghi nhận Càn Long kêu gọi 29.500 quân chính quy, 6.000 quân địa phương, 10 vạn dân binh, lại kêu gọi thêm khoảng chừng 1 vạn Hoa kiều đang sống ở miền Bắc Việt Nam, vài vạn quân nhà Lê). Nhà nghiên cứu và phân tích Tạ Chí Đại Trường kết luận rằng “Tạm thời ta dùng số lượng 20 vạn của sử Việt kể luôn quân chính quy và phụ lực của Thanh, quân nghĩa dũng của nhà Lê, chắc không sai bao nhiêu”. Người phương Tây đương thờiSửa đổiMột số thương nhân, giáo sĩ phương Tây đến Đại Việt vào lúc thế kỷ 18, thời gian đầu thế kỷ 19 có ghi lại trong hồi ký và thư từ, một ít tư liệu về thắng lợi Kỷ Dậu 1789.
Theo nhà nghiên cứu và phân tích Tạ Chí Đại Trường thì:[53].
Một tài liệu khác trong hồi ký của giáo sĩ Pierre-Jacques Lemonnier de la Bissachère (1764-1830) xuất bản tại Pháp năm 1812 cho biết thêm thêm rằng quân Thanh sang Đại Việt khoảng chừng 40.000 người và bị giết tại trận khoảng chừng 20.000 người. Do ông De la Bissachère tới Đàng Ngoài năm 1790-chỉ một năm tiếp theo trận chiến và ở lại cho tới năm 1798 nên Trần Gia Phụng nhận định rằng “trọn vẹn có thể ông (de la Bissachère) tích lũy được nhiều nguồn tin và lượng định số lượng quân Thanh sang nước Việt”[9]. Nhật ký về những sự kiện đáng ghi nhớ trong địa phận Giáo hội Bắc kỳ từ thời gian tháng 10-1788 cho tới thời gian cuối thời điểm tháng 7-1789 ghi rằng “Quang Trung đã cho đem về Phú Xuân và về tân kinh đô tới 2.000 – 3.000 cỗ đại bác và súng thần công (chiến pháo), không biết bao nhiêu là súng dài và khí giới khác cùng với vô số tiền bạc và (đại khái) toàn bộ những vật tư quý giá bắt được của quân Trung Hoa”[54] Dựa theo số lượng chiến lợi phẩm này, trọn vẹn có thể thấy số lượng quân Thanh là không dưới vài vạn. Thư đề ngày 20-1-1790 của giáo sĩ La Mothe gửi cho giáo sĩ Blandin ghi rằng “50.000 binh lính Trung Hoa đã chết vì tay Tiếm vương năm ngoái chỉ trong một cuộc giao chiến”[41] Nếu số lượng này là đúng chuẩn, trọn vẹn có thể thấy số lượng quân Thanh (gồm quân chính quy và dân binh) kéo sang Đại Việt chí ít cũng phải 10 vạn. Trung QuốcSửa đổiĐại Thanh Thực Lục, bộ sử chính thức của nhà Thanh, ghi chép khá đầy đủ những lệnh dụ của vua Thanh cho biết thêm thêm quân Thanh được lệnh sang đánh Đại Việt là 29.500 quân chính quy (quân nòng cốt tinh nhuệ điều động ở bốn tỉnh phía nam), 6.000 quân địa phương và khoảng chừng 10 vạn dân binh phục vụ vận tải lối đi bộ, trong số đó:
Trong “Càn Long chinh vũ An Nam Ký”, Ngụy Nguyên đời Thanh khoảng chừng vài chục năm tiếp theo có chép: số quân Thanh là 18.000, trong số đó đạo quân Lưỡng Quảng là 10.000 (chưa tính số viện binh tương hỗ sau này) và đạo quân Vân Quý là 8.000. Nhưng Ngụy Nguyên cho biết thêm thêm thêm: “bấy giờ những thổ binh, nghĩa dũng đi theo, tiếng đồn đại binh có vài chục vạn“. Như vậy, số quân nòng cốt có tầm khoảng chừng 18.000 (chưa tính 11.500 viện binh tương hỗ bổ trợ update tiếp sau đó), chưa tính số “nghĩa binh”, “nghĩa dũng” và dân phu vận chuyển có mấy chục vạn người. Dù vậy như Ngụy Nguyễn cũng nói, đây chỉ là “tiếng đồn”. Theo Tiến sĩ Nguyễn Duy Chính của Đại học Irvine, Hoa Kỳ thì sổ trả lương và kế toán của nhà Thanh ghi rằng ở phía Đông (vùng Bắc Việt Nam) họ có 10.000 quân, phía Tây có 8.000 và thêm vào đó số viện binh tương hỗ theo những nguồn tài liệu khác, sẽ vào lúc 30.000 quân chính quy[55]. Và cũng trong phân tích này, tiến sỹ có dẫn lại sử gia Ba Lan tên là Wieslaw Olszewski ghi quân Thanh có 200.000 quân (không ghi rõ là loại quân gì) sang nước Việt nhưng không rõ số đánh nhau với Tây Sơn là bao nhiêu[55]. Theo những nhà nghiên cứu và phân tích Tạ Trí Đại Trường[56], Phan Huy Lê[57], Hồ Bạch Thảo[58] và Trần Gia Phụng, sử sách nhà Thanh đã ghi hạ thấp số quân viễn chinh để giảm sút sự thất bại trầm trọng của triều Thanh. Các sử gia Trung Quốc đó không ghi chép khá đầy đủ những lực lượng của toàn bộ quân viễn chinh, nhưng chính những đoạn ghi chép của sử sách nhà Thanh, nhất là bộ Đại Thanh Thực Lục, lại thể hiện nhiều xích míc: Số quân vài vạn mà Đại Thanh Thực Lục ghi không tính đến số “thổ binh”, “nghĩa dũng” và dân phu[59]. Hơn nữa, với một đạo quân mấy vạn thì triều đình nhà Thanh không cần thiết phải cử tổng đốc Lưỡng Quảng là Tôn Sĩ Nghị làm thống soái, dưới trướng gồm một loạt võ quan thời thượng như: Đề đốc Phó tướng Hứa Thế Hanh, Đề đốc Ô Đại Kinh, Phó tướng Khánh Thành, Phó tướng Hình Đôn Hạnh; những tổng binh Thượng Duy Thăng, Trương Triều Long, Lý Hóa Long cùng thật nhiều Tham tướng, Tri phủ, Tri huyện, v.v… Nếu chỉ điều mấy vạn quân, Càn Long cũng không phải quan tâm tới mức vài ngày lại ra một chỉ dụ[58]. Báo cáo của tướng Thanh trước lúc lên đường sang Việt Nam có nêu số quân Tây Sơn ở Bắc Hà có 6 vạn (lúc Nguyễn Huệ chưa rút quân về nam), chưa tính quân đội Tây Sơn (3-4 vạn) đóng ở phía nam, nhà Thanh là bên tiến công nên chứng minh và khẳng định phải kêu gọi số quân nòng cốt đông hơn, vậy thì lực lượng quân Thanh phải vào lúc 10 – 15 vạn lính chính quy trong tổng số 29 vạn quân, dân binh đủ những loại. Trong nội dung bài viết in trên Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển[60], Nguyễn Duy Chính dẫn lại những tổng kết của Lại Phúc Thuận, một học giả đã dày công nhờ vào những tài liệu của Thanh triều như Thanh Cao Tông Thuần Hoàng Đế thực lục, Khâm định An Nam kỷ lược, Thanh sử cảo, Đông Hoa tục lục và những sổ sách của Bộ Hộ, Bộ Hình v.v. để biên soạn thành Càn Long Trọng Yếu Chiến tranh chi Quân Nhu Nghiên cứu (乾隆重要戰爭之軍需研究), xác lập quân Thanh vào Việt Nam gồm có quân chính quy và quân phụ trợ. Quân chính quy ở cánh Lưỡng Quảng có 21.500 người (Quảng Tây đợt một 10.000, đợt hai 3.500; Quảng Đông đợt đầu 5.000, đợt sau 3.000), sắp xếp 4.000 quân đóng ở những quan ải dọc biên, 5.000 quân không theo đại quân mà chia ba toán (2.000 phòng thủ Lạng Sơn, 1.300 canh giữ 17 kho lương dọc đường Lạng Sơn-Thăng Long, 1.700 canh phòng những nơi hiểm yếu), chỉ có 12.500 người ở cánh này theo Tôn Sĩ Nghị và Hứa Thế Hanh chỉ huy đưa xuống Thăng Long. Số quân phụ trợ (gồm thổ binh phối hợp, mã phu, dân phu) ước mấy chục vạn người. Theo tính toán của Trần Gia Phụng thì theo chính sử nhà Thanh, hai cánh quân của Tôn Sĩ Nghị và Ô Đại Kinh khi cộng lại sở hữu tầm khoảng chừng 2 vạn quân chính quy (chưa tính gần viện binh tương hỗ bổ trợ update thêm tiếp sau đó), thêm đoàn quân tiếp liệu của Tôn Vĩ Thanh không dưới 10.000 người nên lúc cộng lại đã được 40.000 quân chính quy. Mỗi quân chính quy lại đem theo tối thiểu một người phu (điều thứ 8 của quân luật Tôn Sĩ Nghị) thì số người Thanh qua Đại Việt tối thiểu là 80.000. Đây là số lượng tối thiểu, mà thực tiễn theo ông, phải cao hơn nữa thế nữa do những tướng lãnh và sĩ quan Thanh chứng minh và khẳng định phải đem theo nhiều hơn thế nữa một người phu, và trước đó để đánh một bộ lạc 150.000 người mà nhà Thanh kêu gọi đến 8 vạn quân, Đại Việt dân đông hơn thật nhiều (khoảng chừng 5 – 6 triệu dân) nên số lượng 1-2 vạn quân là quá ít[9]. Tài liệu này khá khớp với tài liệu của giáo sĩ Pierre-Jacques Lemonnier de la Bissachère khi ông cũng ghi lại rằng quân chính quy của nhà Thanh sang Việt Nam năm đó có tối thiểu (đã biết thành chính sử Trung Quốc ghi chép giảm sút) 40.000 người. ông Phụng tin rằng số quân Thanh trọn vẹn có thể còn đang cao hơn nữa thế nữa chút ít, tuy nhiên trọn vẹn có thể tạm tin được số lượng 40.000 quân chính quy (chưa tính vài chục nghìn dân binh)[61]. Trong thơ caSửa đổiTượng đài Hoàng đế Quang Trung tại Bảo tàng Quang Trung (Bình Định) Trong Đại Nam Quốc Sử diễn ca có đoạn nói về vua Quang Trung đại phá quân Thanh như sau: Quân Thanh đã được Thăng Long, Trong bài thơ Lịch sử việt nam, quản trị Hồ Chí Minh ca tụng vua Quang Trung:
Chú thíchSửa đổi
Xem thêmSửa đổi
Tham khảoSửa đổi
Liên kết ngoàiSửa đổi
Video tương quan |
Chia sẻ
Video Ý nghĩa quân trọng nhất của thắng lợi chống Thanh 1789 là ?
Một số hướng dẫn một cách rõ ràng hơn về Review Ý nghĩa quân trọng nhất của thắng lợi chống Thanh 1789 là tiên tiến và phát triển nhất .
ShareLink Download Ý nghĩa quân trọng nhất của thắng lợi chống Thanh 1789 là miễn phí
Hero đang tìm một số trong những Share Link Cập nhật Ý nghĩa quân trọng nhất của thắng lợi chống Thanh 1789 là Free.
#nghĩa #quân #trọng #nhất #của #chiến #thắng #chống #Thanh #là