Bí quyết về Nguyễn Huệ và Nguyễn Ánh ai tài giỏi hơn Mới Nhất
Pro đang tìm kiếm từ khóa Nguyễn Huệ và Nguyễn Ánh ai tài giỏi hơn 2022-06-08 06:46:03 san sẻ Bí kíp Hướng dẫn trong nội dung bài viết một cách 2021.
Tác giả: Võ Hương An Vua Gia Long vốn không phải là con người hiếu sát, trong cả việc so với họ Trịnh, hai bên đánh nhau ròng rã 45 năm trời, vậy mà khi đã lấy được nước (1802), vẫn đối xử tốt với con cháu họ Trịnh chứ đâu đến cạn tàu ráo máng như với Tây Sơn? Đôi nét lịch sử dân tộc bản địa Sau 25 năm chiến đấu kiên trì và gian truân, ngày mồng 3 tháng 5 năm Tân Dậu (13/6/1801) Nguyễn Vương (vua Gia Long) tái chiếm kinh đô cũ Phú Xuân, đuổi vua tôi Cảnh Thịnh chạy dài ra Bắc. Một năm tiếp theo, ngày mồng 2 tháng 5 năm Nhâm Tuất (1/6/1802), tuy chưa chính thức lên ngôi nhà vua (1) nhưng theo lời đề xuất kiến nghị của bầy tôi, vua phát hành niên hiệu Gia Long, mở ra một triều đại mới của nhà Nguyễn. Vào thời gian đầu thế kỷ XX, vua Khải Định đã chọn ngày này (mồng 2 tháng Năm âm lịch) làm ngày quốc khánh của nước Đại Nam, đặt tên là ngày Hưng quốc khánh niệm. Những ai ở lứa tuổi trên 70 ở Trung kỳ, từng cắp sách đến trường trọn vẹn có thể còn nhớ đôi chút về ngày này, nhất là ở Huế. Đó là ngày mừng giang sơn thống nhất. Niên hiệu Gia Long bao hàm trong ý nghĩa đó – vua muốn nói ông là người đã đi từ Gia Định thành tới Thăng Long thành để thống nhất giang sơn (Võ Hương-An, Thăng Long và Gia Long). Ngay sau khoản thời hạn chiếm lại Phú Xuân và trong lúc vua Cảnh Thịnh của Tây Sơn vẫn đang còn làm chủ ở miền Bắc thì Nguyễn Vương đã cho “Phá hủy mộ giặc Tây Sơn Nguyễn Văn Huệ, bổ săng, phơi thây, bêu đầu ở chợ” (Thực lục I, tr.473). Sau khi chiếm hữu được Bắc Hà, bắt được trọn gói vua tôi, bạn hữu vua Cảnh Thịnh, hoàn thành xong cuộc thống nhất giang sơn từ Nam chí Bắc, vua Gia Long khải hoàn về kinh. Ngày Giáp Tuất tháng 11 năm Gia Long thứ 1 (7 tháng 11 Nhâm Tuất, 1/12/1802) vua đem tù binh ra làm lễ hiến phù ở Thái Miếu. Hiến phù là lễ trình diện tù binh trước bàn thờ cúng tổ tiên, và Thái Miếu là nơi thờ 9 đời chúa Nguyễn. Sau lễ, “Sai Nguyễn Văn Khiêm là Đô thống chế dinh Túc trực, Nguyễn Đăng Hựu là Tham tri Hình bộ áp dẫn Nguyễn Quang Toản [vua Cảnh Thịnh] và em là Quang Duy, Quang Thiệu, Quang Bàn ra ngoài cửa thành, xử án lăng trì, cho 5 voi xé xác, đem tro cốt của Nguyễn Văn Nhạc và Nguyễn Văn Huệ giã nát rồi vất đi, còn xương đầu lâu của Nhạc, Huệ, Toản và mộc chủ [bài vị] của vợ chồng Huệ thì đều giam ở Nhà đồ Ngoại [Ngoại Đồ Gia, cơ quan chế tạo của triều đình, sau gọi là Võ Khố] (năm Minh Mệnh thứ hai đổi giam vào ngục thất cấm cố mãi mãi). Còn đồ đảng là bọn Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng đều xử trị hết phép, bêu đầu cho mọi người biết. Xuống chiếu bố cáo trong ngoài” (Thực lục I, tr.531). Trong chiếu bố cáo cho toàn dân được rõ về lễ hiến phù ngày 7 háng 11 Nhâm tuất, có câu mở đầu: “Trẫm nghe, vì chín đời mà trả thù là nghĩa lớn kinh Xuân Thu…” và kết thúc bằng câu “Nhạc Huệ trời đã giết rồi, cũng đem phanh xác tan xương, để trả thù cho Miếu Xã, rửa hận cho thần nhân” (Thực lục I, tr.532,533). Theo tài liệu của Bissachère, trước lúc nhận lãnh cái chết thảm khốc, bạn hữu vua Cảnh Thịnh còn bị tóm gọn phải tận mắt tận mắt chứng kiến cảnh lính tráng tiểu tiện vào sọt đựng tro cốt của cha (Nguyễn Huệ) và bác (Nguyễn Nhạc) (theo hồi ký của Bissachère) trước lúc tro cốt bị đem “giã nát rồi vất đi”. Phẩm bình của lịch sử dân tộc bản địa Tại miền Nam trước 1975, có hai bộ thông sử tiếng Việt thông dụng là Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim và Việt Sử Toàn Thư của Phạm Văn Sơn. Viết về vua Gia Long, cả hai bộ sử đều giống nhau ở một điểm: có phê phán sự hẹp lượng của vua Gia Long qua việc giết hại công thần (vụ án Nguyễn Văn Thành và vụ án Đặng Trần Thường), có kể rõ việc hành hình trả thù Tây Sơn nhưng trọn vẹn không phản hồi, phê phán gì đến việc “quá tay” trong việc này. Tại sao? Hoa Bằng, tác giả Quang Trung, Anh hùng dân tộc bản địa (Nxb Bốn Phương, Saigon, 1953) khi kết luận thiên biên khảo thứ nhất bằng tiếng Việt về đề tài này đã ngậm ngùi viết: “Vậy mà Nã Phá Luân [Napoléon I] được gởi nắm xương trong đền Invalides làm cho những người dân sau hoài niệm, viếng thăm; còn Quang Trung: mả phải đào, xương phải tán, dòng dõi bị chu di, sự nghiệp liệt liệt oanh oanh gói tròn trong một chữ ‘Ngụy’”. Nhà viết sử Trần Gia Phụng trong Nhà Tây Sơn (Nxb Non Nước, Toronto, 2005) đã và đang có lời bình phẩm nhẹ nhàng nhưng nghiêm khắc: “Cuộc trả thù được vua Gia Long xem là ‘nghĩa lớn Kinh Xuân Thu’ nhưng hành hạ di cốt đối phương trước mắt con cháu họ trái hẳn với đạo lý truyền thống của dân tộc bản địa” (tr.240). Phê bình mạnh tay, mạnh mẽ và tự tin hơn có Quách Giao:
Trong văn hóa truyền thống phương Tây, đánh nhau là đánh nhau nhưng không tồn tại chuyện trả thù kẻ chiến bại một cách tàn nhẫn, nhất là so với những người đã chết. Do đó, khi phát hiện hành vi “dã man” này của vua Gia Long, Stanley Karnow, tác giả tiếng tăm bộ sử VietNam, A History (Penguin Book, 1984) đã viết:
Nếu Nhà Tây Sơn không tồn tại Quang Trung Nguyễn Huệ với thắng lợi quân Thanh và quân Xiêm vang dội trong lịch sử dân tộc bản địa thì hành vi “vì 9 đời mà trả thù” của vua Gia Long chưa chắc đã biết thành búa rìu dư luận nhiều như đã xẩy ra. Ngoài việc ghi chép khá rõ ràng của Quốc Sử Quán Nhà Nguyễn thì hồi ký sống động của giáo sĩ De la Bissachère về việc hành hình trả thù của vua Gia Long so với bạn hữu và vua tôi Cảnh Thịnh (2), đã gây tác động tư tưởng không nhỏ trong giới sử học Đông Tây (Thực ra ông này sẽ không tận mắt tận mắt chứng kiến cuộc hành hình mà chỉ nghe ai đó kể lại). Thử đi vào mạng lưới toàn thế giới, gõ mấy từ khóa như Gia Long, Tây Sơn, Nguyễn Huệ, thì tha hồ đọc công luận phẩm bình, hầu hết đều chê Gia Long về việc này. Điều này cũng dễ hiễu thôi vì hào quang thắng lợi quân Xiêm và quân Thanh của vua Quang Trung rực rỡ quá, đã che mất thực sự thê thảm ở bên trong. Thêm vào đó, với mấy chục năm lịch sử dân tộc bản địa triều Nguyễn do Gia Long khai sáng, đã biết thành miệt thị thậm tệ, đã tác động quá nhiều trên sự nhận thức của người đọc, nhất là người trẻ tuổi. Mặc dầu ngày này gió đã đổi chiều, đã khởi đầu có sự chuyển biến trong nhận thức về yếu tố nghiệp của Nhà Nguyễn (3) nhưng không thiếu chi người vẫn tư duy trong nếp cũ. Câu hỏi đưa ra Các sách sử Việt Nam viết về hành vi “tàn ác” trả thù Tây Sơn của vua Gia Long đều lấy tài liệu từ những bộ chánh sử của Nhà Nguyễn (Đại Nam Thục lục đệ nhất kỷ, Đại Nam Liệt Truyện ), trước lúc nghe biết những rõ ràng khác do nguồn sử liệu Tây phương phục vụ nhu yếu. Sử thần Nhà Nguyễn trong Quốc Sử Quán đang không giấu diếm gì cả, viết trắng chuyện này ra cho hậu thế cùng biết, người sau chỉ tái diễn, chỉ thêm lời bình phẩm nặng nể mà không tồn tại bớt. Riêng người viết, trong niềm ngưỡng mộ thắng lợi oanh liệt hào hùng của vua Quang Trung trước quân Xiêm và quân Thanh xâm lăng, ban sơ thì cũng đồng ý với những bình phẩm chê trách hành vi của vua Gia Long so với Tây Sơn là thái quá, tàn nhẫn, nhưng tiếp sau đó, khi được biết những nguồn tin khác, không khỏi đắn đo tự hỏi và tìm lời giải đáp. Vua Gia Long vốn không phải là con người hiếu sát (4) .Ngay cả việc so với họ Trịnh, hai bên đánh nhau ròng rã 45 năm trời, vậy mà khi đã lấy được nước (1802), vẫn đối xử tốt với con cháu họ Trịnh chứ đâu đến cạn tàu ráo máng như với Tây Sơn? Sau khi làm chủ Bắc hà, vua “Sai chọn người dòng dõi họ Trịnh để giữ việc thờ cúng họ Trịnh. Trước là lúc đại giá Bắc phạt, người họ Trịnh ai cũng sợ bị giết. Vua thấu rõ tâm tình, xuống chiếu dụ rằng: ‘Tiên đế ta với họ Trịnh vốn là nghĩa thông gia. Trung gian Nam Bắc chia đôi, dần nên ngăn cách, đó là việc đã qua của người trước, tránh việc nói nữa. Ngày nay, trong ngoài một nhà, nghĩ lại mối tình thích thuộc bao đời, thương người còn sống, nhớ người đã mất, nên lấy tình hậu mà đối xử. Vậy nên cùng báo lẫn nhau, họp chọn lấy một người trưởng họ, giữ việc thờ cúng để giữ tình nghĩa đời đời” (Thực lục I, tr.508). Vậy là Trịnh Tư được giao lo việc thờ cúng, họ Trịnh được cấp 500 mẫu ruộng để lấy huê lợi cúng tế thường niên, 247 người họ Trịnh được xét tha thuế dinh và miễn binh dao (đi lính và chịu sưu dịch). Ai cũng biết La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp, được định hình và nhận định như một Gia Cát Lượng của vua Quang Trung, một cố vấn tối cao, được vua quan xấp xỉ đều kính nể (4 lần vua khẩn khoản mời ra giúp, ở đầu cuối nhận chức Viện trưởng Viện Sùng Chính năm 1790, giúp vua kiểm soát và chấn chỉnh việc giáo dục, văn hóa truyền thống, giúp vua chọn đất Nghệ An làm Phượng Hoàng trung đô…). Khi Nguyễn Vương tái chiếm Phú Xuân, ông đang ở Huế giúp vua Cảnh Thịnh nhưng không đuổi theo khi vua đào thoát (hay đuổi theo không kịp?) và dường như không trở thành bị tóm gọn mà chỉ quản thúc tại gia, dù phía Nguyễn Vương biết rõ lý lịch, tiếp sau đó Nguyễn Vương đã ra lệnh:
Lại năm 1803, phái đoàn do vua Cảnh Thịnh phái đi sứ Nhà Thanh (gồm Lê Đức Thận, Nguyễn Đăng Sở và Vũ Duy Nghi) bị trả về nước, bị quan Bắc thành bắt giải về Kinh, vua Gia Long tha hết cho về quê. Lại khi Bộ Hình tâu xin vua định đoạt số phận của người vợ lẽ Nguyễn Nhạc cùng 2 người em họ tên Đại và Vạn bị tóm gọn thì vua nói: “Vợ lẽ Nhạc là một người đàn bà thôi. Bọn Đại tuy là thân đảng của giặc Nhạc mà không dự binh quyền, nay Nhạc chết rồi, giết đi thì có ích gì?” (Thực lục I, tr.544). Những chứng dẫn nho nhỏ này đã cho toàn bộ chúng ta biết vua Gia Long là con người phải chăng, tùy từng người, theo trường hợp mà có quyết định hành động tha hay phạt, chứ không phải bạ đâu giết đó, thà giết lầm hơn bỏ sót. Vậy tại sao giết Tây Sơn chưa đủ, phải hành hạ mới hả, kể cả nắm xương khô. Thù chi mà dữ vậy? Sự thật là đây Về chuyện vua Gia Long trả thù Tây Sơn, nhà viết sử Trần Gia Phụng đã ra đi hơn những học giả đi trước lúc lần thứ nhất ông phân tích đúng chuẩn rằng:
Chừng đó nợ máu nghe đã nặng (5 người cật ruột), nhất là món nợ thứ 3, nhẹ vật chất mà nặng tâm linh và đạo đức, ít người biết. Nhưng kể vậy cũng chưa đủ. Khi đọc câu mở đầu của chiếu bố cáo lễ hiến phù: “Trẫm nghe, vì chín đời mà trả thù là nghĩa lớn kinh Xuân Thu…” (5) (Thực lục I, tr.532) tôi không khỏi mỉm cười một mình với ý nghĩ: thiệt mấy ông đời xưa văn chương lớn lối quá, cái chi cũng lôi điển tích với sách vở ra, tô vẽ cho trang trọng. Nhưng tiếp sau đó, khi đọc kỹ Thực lục mới biết mấy chữ vì 9 đời mà trả thù mang một ý nghĩa rất thực, rất rõ ràng, cạnh bên sắc tố điển tích văn chương tô điểm. Ngày 13/6/1801, Nguyễn Vương (vua Gia Long) tái chiếm kinh đô Phú Xuân, nơi ông đã vội vã ra đi khi mới 13 tuổi (ta), và ròng rã 27 năm mơ ước được trở về. Tuy đã làm chủ được Phú Xuân nhưng lực lượng hùng hậu của Tây Sơn Cảnh Thịnh vẫn còn đấy ở bên kia lũy Trường Dục (Quảng Bình), vậy mà đến thời gian đầu tháng 8 năm này đã lo sửa sang lăng mộ tổ tiên và cấp tốc hoàn tất ngay trong tháng. Sao việc nó lại làm quay quồng còn hơn hết công tác làm việc sửa sang thành trì, xây đồn đắp luỹ để phòng chống Tây Sơn? Xin đọc kỹ đoạn ghi chép của Thực lục tại đây, trọn vẹn có thể thấy được nguyên do thúc đẩy (những chữ in đậm là vì người viết, chữ ghi giữa hai ngoặc đứng [x] là chú giải của người viết):
Gạt ra ngoài những rõ ràng hoa lá cành như hai con cọp trong bụi rậm nhảy ra, đang đào mả thì nhà cháy, v.v., đoạn sử ngắn ngủi do Thực lục ghi lại tiết lộ hai điều quan trọng mà ít người nghe biết hoặc biết mà vì một nguyên do nào này đã lơ đi hoặc chỉ phớt nhẹ nói qua: – Thứ nhất, Quang Trung Nguyễn Huệ đã đào hết lăng tẩm của 8 đời chúa Nguyễn tại Thừa Thiên, lấy tro cốt ném xuống sông. Việc này cộng với việc giết chết vị chúa thứ 9 là Định Vương Nguyễn Phúc Thuần tại Long Xuyên năm 1777 thì quả nhiên vua Gia Long tính sổ 9 đời không sai chậy chút nào. Vì vậy trọn vẹn có thể nói rằng được rằng chữ 9 đời có một ý nghĩa rất rõ ràng. Đây là 8 đời chúa Nguyễn:
Về ông tổ Nguyễn Kim, có lẽ rằng vì không biết đích xác mộ phần nẳm ở đâu trong cái bát ngát của núi Triệu Tường ở Thanh Hóa, nên vua Quang Trung đành phải cho qua mà không tính sổ. Tám đời chúa Nguyễn này sẽ không tồn tại hận thù gì với bạn hữu Tây Sơn, đã có công rất rộng so với dân tộc bản địa và giang sơn khi kế tục nhau mở nước về phương Nam, đến tận Cà Mau, Châu Đốc, góp sức cho tổ quốc non một nửa nước, trài dài từ Phú Yên trở vào Nam, với đất đai trù phú, nguồn lợi dồi dào, rộng hơn lãnh thổ nam tiến của những triều Lý, Trần, Hồ và Hậu Lê cộng lại. Không có sự nghiệp này thì hậu thế ngày này lấy chi để khoe với toàn thế giới rằng “việt nam hình cong như chữ S” với “rừng vàng biển bạc”?! – Thứ hai: Phần mộ của ông Nguyễn Phúc Côn, thân sinh vua Gia Long cũng trở nên quật lên và tro cốt ném xuống sông. Ông Nguyễn Phúc Côn là con thứ hai của Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát, mất năm 1765, khi con là Nguyễn Phúc Ánh vẫn đang còn bé. Khi vua Gia Long lên ngôi Hoàng đế (1806) mới truy tôn cha làm Hưng Tổ Hiếu Khang Hoàng Đế, chứ cho tới khi chết dưới tay quyền thần Trương Phúc Loan, ông chẳng làm vua làm chúa gì. Chỉ vì con ông là Nguyễn Phúc Ánh dám chống lại Tây Sơn mà ông đang không được ngủ yên, lâm vào cảnh cảnh con làm cha chịu! Nguyễn Phúc Tộc Thế Phả cho biết thêm thêm thêm một rõ ràng khác:
Thực lục có nói khi Nguyễn Ngọc Huyên chết thì được lập đền thờ và phong làm An Ninh bá. Ở thượng lưu sông Hương có một ngôi miếu, tục gọi là miếu Ông Chài, đó là miếu ông Huyên vậy. Trong văn hóa truyền thống Việt Nam, phận làm con cháu là phải lo gìn giữ mồ mả tiên tổ cha ông. Do đó toàn bộ chúng ta thông cảm với vua Gia Long chỉ trong 2 tháng sau khoản thời hạn tái chiếm Phú Xuân đã vội vã hoàn tất việc tu sửa lăng mộ bởi khi đã biết tình trạng lăng mộ bị phá tanh banh thê thảm như vậy thì không một ai trọn vẹn có thể chờ đón được nữa. Trong lịch sử dân tộc bản địa Việt Nam, việc tranh giành quyền lực tối cao dẫn đến những hành vi giết hại nhau tàn nhẫn không phải là hiếm. Điển hình, để cướp ngôi nhà Lý, Trần Thủ Độ không ngần ngại dồn Lý Huệ Tông vào chỗ chết, với ý đồ nhổ cỏ tận gốc, tuy nhiên Huệ Tông đã biết thân phận, bỏ ngai vàng, vào tu ở chùa Chân Giáo. Đã thế, Trần Thủ Độ còn bày mưu sập bẫy tôn thất Nhà Lý chôn sống trọn gói (may mà Hoàng tử Lý Long Tường nhanh chân thoát qua tị nạn ở Cao Ly, trở thành thuỷ tổ họ Lý của xứ Đại Hàn ngày này). Nhưng có lẽ rằng trong cuộc tranh chấp quyền lực tối cao chưa tồn tại ai trong lịch sử dân tộc bản địa phải trả cái giá 5 mạng người ruột thịt và 9 ngôi mộ cha ông tiên tổ tanh banh với xương cốt không biết đâu tìm như trường hợp vua Gia Long trong lúc đối đầu với Tây Sơn để phục hồi cơ nghiệp của ông cha đã tốn công xây dựng. Ở đời, có vay thì có trả. Nợ nào thì cũng luôn có thể có tính lãi suất vay, chỉ có khác là nặng hay nhẹ, không hình thức này cũng hình thức khác. Nếu Quang Trung Nguyễn Huệ không tạo nhân ác thì trọn vẹn có thể đang không gặp quả ác. Hận thù luôn luôn vẫy gọi thù hận là chuyện thường của trần gian, huống chi lại sở hữu yếu tố tranh giành quyền lực tối cao trong số đó, tham lam và sân hận hẳn phải bốc lên ngùn ngụt. Phải chăng nên thử tự đặt mình vào vị thế của vua Gia Long để sở hữu nhiều thông cảm và có lời phẩm bình phải chăng hơn. Một vài cảm nghĩ Là hậu thế, có lẽ rằng không mấy ai vui lúc biết thực sự của tấn thảm kịch Nguyễn Quang Trung và Nguyễn Gia Long. Cả hai, so với toàn bộ chúng ta, đều phải có chỗ đáng tôn vinh lẫn chỗ chưa ổn. Riêng ngưởi viết, từ tấn thảm kịch lịch sử dân tộc bản địa này, học hỏi được một đôi nét, xin gọi là san sẻ. 1/ Qua việc điện thư của bạn hữu và thân hữu gởi đến tới tấp kèm chuyện “Một ngày lễ Vu lan sầu thảm” của Tịnh Thuỷ, tôi nhận ra rằng té ra loại “lịch sử dân tộc bản địa tiểu thuyết” dễ đi vào lòng người hơn là chính sử khô khan. Đồng ý khi tiểu thuyết hóa lịch sử dân tộc bản địa thì tha hồ cho trí tưởng tượng vẽ vời nhưng cái cơ bản của nó xin đừng đổi trắng thay đen. Thực lục ghi rõ vụ hành hình vua tôi bạn hữu Cảnh Thịnh trình làng ngày giáp tuất tháng 11 năm Gia Long thứ 1 tức ngày 7 tháng 11 Nhâm Tuất, 1/12/1802. Làm chi có ngày Vu Lan trong số đó? Có lẽ tác giả muốn gây ấn tượng cho ngưởi đọc về yếu tố tàn ác khó dung tha của vua Gia Long nên mới lựa một ngày như vậy. Tội nghiệp cho vua! Vua chỉ dự lễ hiến phù, không dự cuộc hành hình, chỉ sai quan thi hành, nên cuộc đối thoại tay đôi giữa vua và bà Bùi Thị Xuân cũng chỉ là thời cơ bày ra để mạt sát tự do. Tội nghiệp. 2/ Việc cải táng mộ ông Nguyễn Phúc Côn trọn vẹn có thể hiểu được, vì tìm kiếm được tro cốt và tro cốt này đã được vua Gia Long xác tín rằng đó là di cốt của người đã sinh thành ra ông. Nhưng với 8 chúa thì sao? Sử nói Các lăng đều theo nền cũ mà xây cao lên. Đồng ý là xây lên rất cao, làm cho to lớn đẹp tươi hơn xưa, nhưng tro cốt không tìm thấy thì chôn cái gì trong số đó? Chẳng lẽ chỉ là một ngôi mộ trống không? Một cái mả gió? Trong một dịp về thăm Huế sau 7 năm “đi học làm người tốt” (!), tôi được biết sau năm 1975, do đói quá, người ta đã làm bậy. Việc đào trộm mồ mả lăng tẩm giới quyền quí đã xẩy ra với ý đồ tìm vàng bạc châu báu tùy táng. Người bạn kể cho nghe (tôi chưa tồn tại thời cơ kiểm chứng) khi cụ Vương Hồng Sển, nhà sưu tập đồ vật thời cổ xưa nổi tiếng của Miền Nam, biết được kẻ tà đạo đã tìm kiếm được nữ trang trong lăng Hoàng Thái Hậu Từ Dũ (vợ vua Thiệu Trị, mẹ vua Tự Đức) và đem bán thì cụ đã kêu trời. Dưới cái nhìn cơm áo của kẻ trộm, đó là vàng, tính theo thời giá của chỉ và lượng. Dưới cái nhìn của cụ Vương, đó là đổ cổ vô giá của vương quốc! Nhưng đó không phải là rõ ràng tôi quan tâm, vì bảo vật vương quốc người ta đẩy ra quốc tế nhiều rồi. Chi tiết lý thú mà tôi nghe được đã hỗ trợ tôi hiểu biết thêm và lý giải vướng mắc nêu trên. Chi tiết đó là, bọn kẻ trộm, khi đào đến quan tài của một ông chúa nào đó đang không thấy tro cốt mà chỉ thấy hình người ta được làm bằng gỗ! Điều này xác nhận giả thiết mà tôi đã nghĩ trong đầu nhưng không biết phương pháp nào để kiểm chứng, ấy là tục chiêu hồn nạp táng. “Chiêu hồn nạp táng” là gì? “Trong gia phả những họ rất chú trọng mục: Mộ táng ở đâu. Trong mục này còn có một số trong những trường hợp ghi chú: “Chiêu hồn nạp táng”. Đó là những ngôi mộ không tồn tại tử thi, tro cốt, mộ người chết trận, chết đuối hay do thú dữ vồ… không tìm kiếm được tử thi. Thân nhân làm hình nhân và làm lễ an táng theo như lễ an táng thường thì. Được nghe những cụ ông cụ bà kể lại rằng: vật liệu làm hình nhân, có địa phương dùng cây núc nác (còn gọi là sò đo thuyền, mộc hồ điệp, nam hoàng bá, bạch ngọc nhi). Núc nác là loại gỗ mềm và xốp, dễ tạo hình, chôn dưới đất lâu hoai, lại dễ kiếm vì mọc ở nhiều nơi. Có địa phương dùng bùn lấy ở giữa dòng sông, có địa phương dùng mùn đào ở giữa ngã tư đường cái. Hình nhân được đẽo gọt hoặc nhào nặn thô sơ, có đầu mình chân tay là được (vì hầu hết không phải là nghệ nhân). Kích thước của hình nhân khoảng chừng 30-40 cm chiều dài. Thi hài tượng trưng này cũng rất được khâm liệm, đưa vào áo quan làm được làm bằng gỗ vàng tâm, kích thước nhỏ bé, hoặc đưa vào tiểu sành. Trên hình nhân có phủ lên linh vị viết trên giấy tờ kim tuyến, nội dung tựa như linh vị đặt tại bàn thờ cúng. Trước khi làm lễ an táng có mời thầy cúng làm bùa ấn phù phép để vong hồn nhập vào hình nhân. Lễ an táng và những lễ những lễ khác cũng tiến hành như tang lễ thường thì. 3/ Hình như có một nhà tư tưởng nào này đã nói: “Làm thầy thuốc lầm thì chết một người; làm thầy địa lý lầm thì giết một họ; làm chính trị lầm thì giết một nước, làm làm văn hóa truyền thống lầm giết cả một đời”. Dưới tác động của môn tử vi Trung Hoa, người Việt từ vua cho chí dân đều tin rằng âm phần tổ tiên có tác động trực tiếp đến sinh mệnh và tương lai của con cháu. Bởi vậy ai cũng mong ước tìm cho được một huyệt mả tốt để được kết phát, để con cháu được hưởng phước vinh hoa phú quí lâu bền hơn. Bởi vậy, để tận diệt quân địch không gì bằng triệt long mạch, phá huyệt mộ, đào mả cha ông nhà người ta lên. Làm thế thì chứng minh và khẳng định con cháu không thể nào ngóc đầu lên được, lấy gì mà chống trả. Quang Trung Nguyễn Huệ, ngoài việc sử dụng binh sĩ đánh Nguyễn Vương chạy dài ra biển, trốn qua đến Xiêm La hai lần, vẫn không quên sử dụng chiêu thức này để tương hỗ. Và làm cho chắc ăn, thà phá lầm hơn bỏ sót, đang không những quật mồ thân sinh vua Gia Long là huyết thống trực hệ mà còn quật mồ cả 8 đời chúa Nguyễn xa lắc. Thật là một sự tính toán chu đáo. Tuy toan tính chu đáo như vậy nhưng Nhà Tây Sơn Nguyễn Huệ chỉ tồn tại có 14 năm (1788-1802, 1788 là năm vua Quang Trung đăng quang trước lúc ra Bắc phá quân Thanh), trong lúc Nguyễn Vương, mặc dầu bị đánh trúng tử huyệt (theo ý niệm tử vi) nhưng sau 25 năm bền bĩ chiến đấu nhọc nhằn, đã thống nhất giang sơn, phục hưng được cơ nghiệp tổ tiên, lập ra triều đại mới, tồn tại 143 năm (1802-1945). Vậy là thế nào? Chẳng lẽ tử vi hoàn tòan là một thứ tin mê tín dị đoan dị đoan? Không, không thể vì vậy mà kết luận tử vi một cách hồ đổ như vậy được. Cái nước Mỹ của khoa học kỹ thuật tiến bộ nhất toàn thế giới này cũng đang hoạt động giải trí và sinh hoạt theo Feng Shui (Phong thủy) của nền văn minh cổ Trung Hoa, có thua chi Việt Nam xưa và nay đâu, có điều họ chú trọng đến dương cơ hơn âm phần. Như vậy phải có một yếu tố gì khác làm cho độc chiêu do vua Quang Trung phát ra đang không tồn tại hiệu suất cao. Tôi chợt nhớ đến chữ Đức trong câu ca dao: Người trồng cây hạnh người chơi/ Ta trồng cây đức để đời về sau. Trong 8 đời chúa Nguyễn, không thấy ông nào làm điều gì thất đức. Ông nào thì cũng lo làm cho dân giàu nước mạnh. Lịch sử cuộc nam tiến đi từ Phú Yên đến Cà Mau-Châu Đốc chứng tỏ điều này. Hậu thế đã được thừa kế biết bao phúc lợi từ sự nghiệp nam tiến đó! Có 3 ông chúa mang thương hiệu khác thường: Chúa Sãi, chúa Hiền, chúa Ngãi. Nghe nôm na và thân tình biết mấy. Nếu cai trị mà không được dân thương mến và biết ơn thì làm chi có những cách gọi kém vương giả nhưng giàu tình cảm như vậy? Có đến 4 ông chúa, ngoài tên và vương hiệu, lại tự xưng là đạo nhân, như Thiên Túng đạo nhân (chúa Minh Nguyễn Phúc Chu), Vân Tuyền đạo nhân (chúa Ninh Nguyễn Phúc Thụ) hay Từ Tế đạo nhân (Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát), Khánh Phủ đạo nhân (Định Vương Nguyễn Phúc Thuần). Đó cũng là một nét đặc biệt quan trọng. Nhiều ông chúa xây chùa (chúa Tiên lập chùa Thiên Mụ, Long Hưng, Bảo Châu, Kính Thiên; chúa Hiền lập chùa Túy Vân) hay trùng tu chùa, đúc chuông, thỉnh sư giảng Pháp (chúa Minh). Có lẽ nhờ biết tu nhân tích đức mà Đức năng thắng số, Số chưa ổn đức nên tai qua nạn khỏi, như câu tục ngữ mà ông bà xưa thường nói để dạy khôn cho con cháu: Trời hại mới lo, người hại như phấn nhồi. Đó là nói nôm na, cho có vẻ như đúng chuẩn và minh triết hơn thì đấy đó là nhân quả nghiệp báo. Theo thiển ý, có lẽ rằng hiểu Theo phong cách này mới lý giải được chỗ chưa ổn của phong thuỷ. ————- Chú thích: (1) Mãi đến mùa hạ năm 1806 (Bính Dần) vua mới chính thức làm lễ lên ngôi Hoàng đế tại điện Thái Hoà. (2) Có thể xem: La Relation sur le Tonkin et la Cochinchine, hồi ký của Bissachère viết năm 1807 do Charles B. Maybon sửa đổi và biên tập và xuất bản năm 1920, từ trang 118 đến trang 120 trong http://www.archive.org/stream/larelationsurlet00labi#page/n1/mode/2up (3) Ngày 18 và 19/10/2008 tại Thanh Hóa có một cuộc hội thảo chiến lược “Đánh giá lại chúa Nguyễn và Vương triều Nguyễn” được phóng viên báo chí truyền thông ghi nhận là “một hội thảo chiến lược lịch sử dân tộc bản địa”, có lẽ rằng vì phải sẵn sàng tài liệu đến 20 năm và tỉnh Thanh Hóa đã tài trợ gần một tỷ vnđ VN để tổ chức triển khai, Có hai nhận xét quan trọng được ghi nhận: “Theo GS Văn Tạo, nguyên Viện trưởng Viện Sử học, nên phải có nhận thức mới về nhà Nguyễn trong lịch sử dân tộc bản địa dân tộc bản địa trên tinh thần “công minh lịch sử dân tộc bản địa”. “Tổng kết hội thảo chiến lược, GS Phan Huy Lê, quản trị Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam xác lập: Cuộc hội thảo chiến lược lần này đã nhận được được sự hưởng ứng rộng tự do không riêng gì có của giới khoa học mà còn của dư luận xã hội, chứng tỏ những nhận thức trước đó về vai trò của chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử dân tộc bản địa dân tộc bản địa theo phía phê phán và phủ định đang không hề thỏa đáng nữa” (http://www.thethaovanhoa.vn/133N20081020034945468T0/danh-gia-lai-chua-nguyen-va-vuong-trieu-nguyen-mot-hoi-thao-lich-su.htm (4) Vua Gia Long có một thanh gươm mang tên Qui Y. Sử ghi rằng thanh gươm này còn có tính ưa giết người (hiếu sát), Tối hôm nào gươm tự động hóa thoát thoát khỏi vỏ thì hôm sau thế nào thì cũng luôn có thể có người phạm tội bị chém bằng thanh gươm đó. Vua Gia Long ghét tính hiếu sát của gươm bèn đem qui y cửa Phật và đặt tên là Qui Y (Quốc Triều Chánh Biên Toát Yếu). (5) “Xuân Thu, Công Dương truyện: Trang công năm thứ 4 chép: Tề Tướng công giết nước Kỷ, vì ông tổ xa đời là Ai công mà phục thù, đời gọi là mối thù 9 đời” (Chú thích của dịch giả Thực lục I, tr.532). Nguồn: Nhà nghiên cứu và phân tích lịch sử dân tộc bản địa Võ Hương An (Khamphahue.com.vn) |
Review Nguyễn Huệ và Nguyễn Ánh ai tài giỏi hơn ?
Một số hướng dẫn một cách rõ ràng hơn về đoạn Clip Nguyễn Huệ và Nguyễn Ánh ai tài giỏi hơn tiên tiến và phát triển nhất .
Chia Sẻ Link Cập nhật Nguyễn Huệ và Nguyễn Ánh ai tài giỏi hơn miễn phí
Heros đang tìm một số trong những Chia Sẻ Link Down Nguyễn Huệ và Nguyễn Ánh ai tài giỏi hơn Free.
#Nguyễn #Huệ #và #Nguyễn #Ánh #tài #giỏi #hơn