Thượng kinh kí sự đã miêu tả cuộc sống trong phủ chúa Trịnh như thế nào 2022

Mẹo Hướng dẫn Thượng kinh kí sự đã miêu tả môi trường sống đời thường trong phủ chúa Trịnh ra làm thế nào 2021


Hero đang tìm kiếm từ khóa Thượng kinh kí sự đã miêu tả môi trường sống đời thường trong phủ chúa Trịnh ra làm thế nào 2022-01-20 09:45:11 san sẻ Bí quyết Hướng dẫn trong nội dung bài viết một cách Chi Tiết.







Cảm nghĩ của anh chị về giá trị hiện thực của đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh để thấy đượcbức tranh sinh động về môi trường sống đời thường xa hoa, quyền quý và cao sang của chúa Trịnh, đồng thời cũng thể hiện thái độ coi thường lợi danh của tớ. Đối với ông thì không tồn tại gì quý bằng môi trường sống đời thường tự do nơi non xanh nước biếc chốn quê nhà.




  • Cảm nghĩ của anh chị về giá trị hiện thực của đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh

  • Dàn ý giá trị hiện thực của đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh

  • Giá trị hiện thực của đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh – Mẫu 1

  • Giá trị hiện thực của đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh – Mẫu 2

  • Giá trị hiện thực của đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh – Mẫu 3

  • Giá trị hiện thực của đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh – Mẫu 4

  • Giá trị hiện thực của đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh – Mẫu 5

  • Giá trị hiện thực của đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh – Mẫu 6

  • Giá trị hiện thực của đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh – Mẫu 7

  • Giá trị hiện thực của đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh – Mẫu 8

  • Video tương quan


Giá trị hiện thực của đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh gồm dàn ý rõ ràng kèm theo 8 bài văn mẫu hay nhất. Thông qua tài liệu này những bạn lớp 11 có thêm nhiều tư liệu tìm hiểu thêm, trau dồi vốn từ rèn luyện kỹ năng viết văn ngày một hay hơn để đạt được kết quả cao trong nội dung bài viết số 2 sắp tới đây.



Cảm nghĩ của anh chị về giá trị hiện thực của đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh


  • Dàn ý giá trị hiện thực của đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh

  • Giá trị hiện thực của đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh – Mẫu 1

  • Giá trị hiện thực của đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh – Mẫu 2

  • Giá trị hiện thực của đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh – Mẫu 3

  • Giá trị hiện thực của đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh – Mẫu 4

  • Giá trị hiện thực của đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh – Mẫu 5

  • Giá trị hiện thực của đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh – Mẫu 6

  • Giá trị hiện thực của đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh – Mẫu 7

  • Giá trị hiện thực của đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh – Mẫu 8



Dàn ý giá trị hiện thực của đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh


I. Mở bài: Giới thiệu đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh


II. Thân bài: Cảm nghĩ giá trị hiện thực thâm thúy của đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh”


1. Bức tranh hiện thực của phủ chúa Trịnh


a. Quang cảnh phủ chúa Trịnh


– Một nơi vô cùng xa hoa, trang trọng và thâm nghiêm


– Màu sắc chủ yếu của phủ là đỏ và vàng


– Không khí ngột ngạt


=> Tác giả miêu tả rất rõ ràng và tinh xảo


b. Cuộc sống và sinh hoạt trong phủ chúa Trịnh:


– Nơi nhiều nguyên tắc, luật lệ


– Cuộc sống xa hoa nhưng thiếu đi sinh khí


– Thể hiện sự lộng quyền của chúa Trịnh


2. Thái độ của tác giả so với cung cảnh và cách sinh hoạt nơi phủ chúa


– Tác giả không đống ý với môi trường sống đời thường xa xỉ và xa hoa của chúa Trịnh


– Lê Hữu Trác dửng dưng trước những quyến rũ lợi danh tại phủ chúa


– Cuộc đấu tranh nội tâm của tác giả


III. Kết bài: Nêu cảm nhận của em về giá trị hiện thực của đoạn trích



– Đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh thể hiện rất thâm thúy và chân thực về quang cảnh và môi trường sống đời thường trong phủ chúa Trịnh, một môi trường sống đời thường xa hoa nhưng thiếu sinh khí và ngột ngạt.


Giá trị hiện thực của đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh – Mẫu 1


Lê Hữu Trác (1724 – 1791) tên hiệu là Hải Thượng Lãn Ông, quê ở làng Liêu Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, trấn Thành Phố Hải Dương (nay thuộc huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên). Ông là một danh y lừng lẫy trong lịch sử dân tộc bản địa y học Việt Nam. Sự nghiệp của ông được tập hợp trong bộ Hải Thượng y tông tâm lĩnh gồm 66 quyển, biên soạn trong khoảng chừng thời gian gần 40 năm, là một khu công trình xây dựng nghiên cứu và phân tích y học xuất sắc nhất thời trung đại ở việt nam. Thượng kinh kí sự nguyên văn bằng chữ Hán, được Lê Hữu Trác viết năm 1782, nội dung ghi lại những điều mà tác giả tai nghe mắt thấy trong những lần được với ra kinh đô Thăng Long chữa bệnh cho cha con chúa Trịnh Sâm. Qua những trang viết sinh động và tinh xảo, tác giả đã phản ánh chân thực môi trường sống đời thường xa hoa của tầng lớp vua chúa phong kiến, đồng thời kín kẽ bày tỏ thái độ thờ ơ, coi thường danh lợi của tớ.


Mở đầu bài kí là khung cảnh giàu sang, đẹp tươi hiếm có của phủ chúa Trịnh được tác giả miêu tả trực tiếp qua quan sát và miêu tả gián tiếp qua ấn tượng mà nó gây ra trong tâm tác giả: Tôi ngẩng đầu lên: Đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương Tôi nghĩ bụng: Mình vốn con quan, sinh trưởng ở chốn phồn hoa, nơi nào trong cấm thành tôi đã và đang từng biết. Chỉ có những việc trong phủ chúa là mình mới chỉ nghe nói thôi. Bước chân đến đây mới hay cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hoàn toàn người thường!



Tuy được mời nhưng vị danh y cũng chỉ được đưa vào phủ bằng lối cửa sau, từng bước đều phải có người của phủ chúa đi theo. Trên lối đi, ông để ý ghi nhận từng sự vật: Đi được vài trăm bước, qua mấy lần cửa mới đến cái điếm Hậu mã quân túc trực. Điếm làm bên cái hồ, có những cái cây lạ lùng và những hòn đá kỳ lạ. Trong điếm cột và bao lơn lượn vòng, phong thái thật là xinh đẹp.


Càng vào sâu bên trong, sự ngạc nhiên của tác giả càng lớn: Qua dãy hiên chạy phía tây, đến một chiếc nhà lớn thật là cao và rộng. Hai bên là hai cái kiệu để vua chúa đi. Đồ nghi trượng đều sơn son thếp vàng. Ở giữa đặt một chiếc sập thếp vàng. Trên sập mắc một chiếc võng điều. Trước sập và hai bên, bày bàn và ghế, những vật phẩm và vật dụng nhân gian trước đó chưa từng thấy Lại qua một cửa nữa, đến một chiếc lầu cao và rộng. Ở đây, cột đều sơn son thếp vàng. Đúng là cảnh lầu son gác tía, cung bạc lầu vàng mà dân chúng chỉ trọn vẹn có thể thấy trong truyện thần tiên hoặc trong tưởng tượng mà thôi.


Khung cảnh trong phủ chúa đã được Lê Hữu Trác khái quát qua mấy câu thơ tức cảnh:


Lính nghìn cửa vác đòng nghiêm ngặt
Cả trời Nam sang nhất là đây
Lầu từng gác vẽ tung mây,
Rèm châu, hiên ngọc, bóng mai ánh vào.


Cung cách sinh hoạt trong phủ chúa lại càng khác xa chốn dân gian. Lần thứ nhất trong đời, với tư cách là quý khách mời, tác giả được sử dụng cơm bằng mâm vàng, chén bạc, món ăn toàn là của ngon vật lạ Không một lời phản hồi, tác giả để những rõ ràng tự toát lên ý nghĩa hiện thực sâu xa của nó. Thời kì này, quyết sách phong kiến lâm vào cảnh tình trạng khủng hoảng cục bộ rủi ro đáng tiếc, rối ren. Vua Lê nhu nhược chỉ từ đóng vai trò bù nhìn, mọi quyền lực tối cao chính trị đều rơi vào tay chúa Trịnh, mà chúa Trịnh thì lộng hành, ăn chơi xa xỉ, hoang dâm vô độ. Trong khi đó, dân chúng sống lầm than cơ cực, tiếng oán thán vang lên khắp hang cùng ngõ ngách. Quyền lợi của vua chúa không hề đồng nghĩa tương quan với quyền lợi của vương quốc, dân tộc bản địa. Vì thế mà người người bất bình. Phong trào khởi nghĩa nông dân chống lại triều đình nổi lên khắp nơi. Do có nhận thức đúng đắn về thực ra của triều đình phong kiến đương thời nên Lê Hữu Trác dứt khoát quay sống lưng trước con phố hoạn lộ đầy cám dỗ của danh lợi, phú quý nhưng vinh liền nhục và cũng đầy hiểm hóc.



Đoạn văn miêu tả nơi cung cấm khá tỉ mỉ, vừa có mức giá trị hiện thực tinh xảo vừa ngầm chứa thái độ giễu cợt nhẹ nhàng của tác giả: Đi qua độ năm, sáu lần trướng gấm như vậy, đến một chiếc phòng rộng, ở giữa phòng có một chiếc sập thếp vàng. Một người ngồi trên sập độ năm, sáu tuổi, mặc áo lụa đỏ. Có mấy người đứng hầu hai bên. Giữa phòng là một cây nến to cắm trên một cải giả bằng đổng. Bên sập đặt một chiếc ghế rồng sơn son thếp vàng, trên ghế bày nệm gấm. Một cái màn là che ngang sân. Ở trong có mấy người cung nhân đang đứng xúm xít Đèn sáp chiếu sáng, làm nổi màu mặt phấn và màu áo đỏ. Xung quanh lấp lánh lung linh, hương hoa ngào ngạt. Xem chừng Thánh thượng thường thường vẫn ngồi trên ghế rồng này, nay người rút lui vào màn để tôi xem mạch Đông cung cho thật kỹ.


Qua hình dáng và bệnh tình của Đông cung thế tử được tác giả miêu tả khá kỹ, người đọc trọn vẹn có thể liên tưởng đến tình trạng suy thoái và khủng hoảng của triều đình phong kiến Việt Nam thời đó: thế tử ở trong chốn màn che trướng phủ, ăn quá no, mặc quá ấm nên tạng phủ yếu đi. Vả lại, bệnh mắc đã lâu, tinh khí khô hết, da mặt khô, rốn lồi to, gân thời xanh, tay chân gầy gò. Đó là vì nguyên khỉ đã hao mòn, thương tổn quá mức cần thiết. Quả là quyết sách phong kiến tồn tại hàng nghìn trong năm này đã già cỗi, lỗi thời và khó bề cứu chữa.


Vốn là một người thông minh, Lê Hữu Trác đắn đo rất kỹ trong cách chữa bệnh cho thế tử. Ý kiến của những thầy thuốc trong cung ông nghe chỉ để tìm hiểu thêm. Từ tình hình bệnh tình và thể lực của thế tử, ông phân tích, Để ý đến thiệt hơn rồi tìm ra cách chữa thích hợp nhất: Tôi thấy thánh thể gầy, mạch lại tế, sác. Thế là âm khí và dương khí đều bị tổn hại, nay phải dùng thuốc thật bổ để bổ dưỡng tỳ và thận, cốt giữ cái cơ bản tiên thiên và làm nguồn gốc cho cái hậu thiên. Chính khí ở trong mà thắng thì bệnh ở ngoài sẽ tự nó tiêu dần, không trị bệnh mà bệnh sẽ mất.


Điều thú vị hơn hết là nếu suy ngẫm kĩ, toàn bộ chúng ta sẽ thấy nội dung tờ khai của danh y Lê Hữu Trác nói về kiểu cách chữa bệnh cho thế tử nhưng lại tiềm ẩn một nhận xét cực kỳ đúng chuẩn về tình hình của triều đình phong kiến đương thời và đưa ra phương thức chữa trị những căn bệnh trầm kha của nó: Chầu mạch, thấy sáu mạch tế, sác và vô lực, hữu quan yếu, hữu xích lại càng yếu hơn. Ấy là tỳ âm hư, vị hỏa quá thịnh, không giữ được khí dương, nên âm hoả đi càn. Vì vậy bên phía ngoài thấy cổ trướng, đó là tượng trưng ngoài thì phù, bên trong thì trống. Nên bổ tỳ thổ thì yên



Danh y Lê Hữu Trác thừa sáng suốt để kê một phương thuốc hòa hoãn cho thế tử vì sợ nếu mình làm kết quả ngay thì sẽ bị danh lợi nó ràng buộc, không làm thế nào về núi được nữa. Là một bậc chân Nho, ông tỏ ra nắm rất vững lẽ xuất xử của người quân tử. Quyết định lánh xa vòng danh lợi của ông trong tình hình ấy là vô cùng đúng đắn.


Đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh mang giá trị hiện thực thâm thúy. Bằng tài quan sát tinh xảo và ngòi bút ghi chép rõ ràng, chân thực, tác giả đã vẽ lại một bức tranh sinh động về môi trường sống đời thường xa hoa, quyền quý và cao sang của chúa Trịnh, đồng thời cũng thể hiện thái độ coi thường lợi danh của tớ. Đối với ông thì không tồn tại gì quý bằng môi trường sống đời thường tự do nơi non xanh nước biếc chốn quê nhà, được đem hết tài năng, nhiệt huyết góp sức cho y thuật và cứu nhân độ thế. Cuộc sống nơi cung vua, phủ chúa dẫu giàu sang phú quý tột bậc nhưng rốt cuộc cũng chỉ là vào luồn ra cúi, cá chậu chim lồng mà thôi.


Giá trị hiện thực của đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh – Mẫu 2


Con ơi nhớ lấy câu này
Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan


Bọn vua chúa phong kiến hầu hết là những tên cướp ngày. Chúng cướp của nhân dân một cách minh bạch bằng đủ thủ đoạn tàn ác để vinh thân phì gia, để thưởng thức môi trường sống đời thường. Lên Hữu Trác – một danh y lỗi lạc, một văn nhân tài ba của việt nam ở thế kỉ XVIII đã một phần nào nói lên được tình hình này qua tác phẩm Thượng kinh kí sự. Trong kí sự này, đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh có một giá trị hiện thực thâm thúy khi phản ánh được môi trường sống đời thường xa hoa, giàu sang, quyền uy tột bậc của nhà chúa.


Thượng kinh kí sự nguyên văn bằng chữ Hán, được Lê Hữu Trác viết năm 1782. Nội dung ghi lại những điều mà tác giả tai nghe mắt thấy trong những lần được với ra kinh đô Thăng Long chữa bệnh cho cha con chúa Trịnh Sâm. Qua những trang viết sinh động và tinh xảo, tác giả đã phản ánh chân thực môi trường sống đời thường xa hoa của tầng lớp vua chúa phong kiến, đồng thời kín kẽ bày tỏ thái độ thờ ơ, coi thường danh lợi của tớ. Lê Hữu Trác sử dụng người trần thuật ngôi thứ nhất, trực tiếp tiếp cận cung cách sinh hoạt xa hoa của chúa Trịnh. Nhà văn quan sát tỉ mỉ, ghi chép trung thực, tả cảnh sinh động, thuật việc khôn khéo.


Mở đầu bài kí là khung cảnh giàu sang, đẹp tươi hiếm có của phủ chúa Trịnh được tác giả miêu tả trực tiếp qua quan sát và miêu tả gián tiếp qua ấn tượng mà nó gây ra trong tâm tác giả: Tôi ngẩng đầu lên: đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương Tôi nghĩ bụng: Mình vốn con quan, sinh trưởng ở chốn phồn hoa, nơi nào trong cấm thành tôi đã và đang từng biết Chỉ có những việc trong phủ chúa là mình mới chỉ nghe nói thôi. Bước chân đến đây mới hay cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hoàn toàn người thường!





Quang cảnh và cung cách sinh hoạt trong phủ chúa được ghi lại khá tỉ mỉ qua con mắt quan sát của một thầy thuốc lần thứ nhất bước tiến vào toàn thế giới mới lạ. Không gian nghệ thuật và thẩm mỹ của tác phẩm ngày càng được mở rộng hơn theo bước tiến, và quan điểm của nhân vật xưng tôi. Bức tranh toàn cảnh về phủ chúa Trịnh không riêng gì có có bề rộng mà còn tồn tại chiều sâu, với một sức gợi mạnh mẽ và tự tin.


Tuy được mời nhưng vị danh y cũng chỉ được đưa vào phủ bằng lối cửa sau, từng bước đều phải có người của phủ chúa đi theo. Trên lối đi, ông để ý ghi nhận từng sự vật: Đi được vài trăm bước, qua mấy lần cửa mới đến cái điếm hậu mã quân túc trực. Điếm làm bên cái hồ, có những cái cây lạ lùng và những hòn đá kỳ lạ. Trong điếm cột và bao lơn lượn vòng, phong thái thật là xinh đẹp.


Sau bên trong, qua dãy hiên chạy phía tây, đến một chiếc nhà lớn thật là cao và rộng. Hai bên là hai cái kiệu để vua chúa đi. Đồ nghi trượng đều sơn son thếp vàng. Ở giữa đặt một chiếc sập thếp vàng. Trên sập mắc một chiếc võng điều. Trước sập và hai bên, bày bàn và ghế, những vật phẩm và vật dụng nhân gian trước đó chưa từng thấy Lại qua một cửa nữa, đến một chiếc lầu cao và rộng. Ở đây, cột đều sơn son thếp vàng. Đúng là cảnh lầu son gác tía, cung bạc lầu vàng mà dân chúng chỉ trọn vẹn có thể thấy trong truyện thần tiên hoặc trong tưởng tượng mà thôi.


Đặc biệt là cung cách sinh hoạt trong phủ chúa lại càng khác xa chốn dân gian. Lần thứ nhất trong đời, với tư cách là quý khách mời, tác giả được sử dụng cơm bằng mâm vàng, chén bạc, món ăn toàn là của ngon vật lạ Không một lời phản hồi, tác giả để những rõ ràng tự toát lên ý nghĩa hiện thực sâu xa của nó. Thời kì này, quyết sách phong kiến lâm vào cảnh tình trạng khủng hoảng cục bộ rủi ro đáng tiếc, rối ren. Vua Lê nhu nhược chỉ từ đóng vai trò bù nhìn, mọi quyền lực tối cao chính trị đều rơi vào tay chúa Trịnh, mà chúa Trịnh thì lộng hành, ăn chơi xa xỉ, hoang dâm vô độ. Trong khi đó, dân chúng sống lầm than cơ cực, tiếng oán thán vang lên khắp hang cùng ngõ ngách. Quyền lợi của vua chúa không hề đồng nghĩa tương quan với quyền lợi của vương quốc, dân tộc bản địa. Vì thế mà người người bất bình. Phong trào khởi nghĩa nông dân chống lại triều đình nổi lên khắp nơi. Do có nhận thức đúng đắn về thực ra của triều đình phong kiến đương thời nên Lê Hữu Trác dứt khoát quay sống lưng trước con phố hoạn lộ đầy cám dỗ của danh lợi, phú quý nhưng vinh liền nhục và cũng đầy hiểm hóc.


Đoạn văn miêu tả nơi cung cấm khá tỉ mỉ, vừa có mức giá trị hiện thực tinh xảo vừa ngầm chứa thái độ giễu cợt nhẹ nhàng của tác giả: Đi qua độ năm, sáu lần trướng gấm như vậy, đến một chiếc phòng rộng, ở giữa phòng có một chiếc sập thếp vàng. Một người ngồi trên sập độ năm, sáu tuổi, mặc áo lụa đỏ. Có mấy người đứng hầu hai bên. Giữa phòng là một cây nến to cắm trên một cải giả bằng đổng. Bên sập đặt một chiếc ghế rồng sơn son thếp vàng, trên ghế bày nệm gấm. Một cái màn là che ngang sân. Ở trong có mấy người cung nhân đang đứng xúm xít. Đèn sáp chiếu sáng, làm nổi màu mặt phấn và màu áo đỏ.


Lê Hữu Trác tổ chức triển khai điểm nhìn trần thuật linh hoạt. Có đoạn yếu tố được kể theo quan sát của nhân vật xưng tôi. Có đoạn nhà văn làm cho nhân vật quan truyền chỉ miêu tả,trình làng. Người đọc có cảm tưởng không riêng gì có có Lê Hữu Trác dẫn ta vào phủ chúa để tự do quan sát ngắm nhìn và thưởng thức mà cả những kẻ hầu cận chúa cũng đưa ta xâm nhập, mày mò thực sự ở Đông cung. Những đoạn nhân vật tôi độc thoại toát lên cái nhìn tinh xảo và sự cảm nhận tinh xảo. Những đoạn kể tả, đã cho toàn bộ chúng ta biết nhân vật tôi bao quát được một không khí to lớn, tóm gọn được thần thái, thực ra của sự việc vật hiện tượng kỳ lạ. Trong tư cách một người thầy thuốc quê mùa, nhân vật tôi luôn tỏ ra là một người hoà nhã kính nhường, ham học hỏi y thuật của đồng nghiệp. Sự trái chiều về vị thế so với những vị lương y của sáu cung hai viện,không khiến nhân vật tôi trở nên nhỏ bé, trái lại càng tôn cao hơn nữa nhân cách và tài năng của nhân vật này. Vẻ đông đúc của lương y nơi triều đình tự trình diện hết sự thực ở phú chúa đang tồn tại một khối mạng lưới hệ thống quan lại bất tài, ăn bám .



Các nhà nho xưa ít khi nói về phần mình. Nhưng trong đoạn trích này,tác giả đang không ngần ngại để cái tôi đóng một vai trò quan trọng. Vào phủ chúa Trịnh thể hiện trực tiếp cái tôi thành viên người cầm bút. Qua đoạn trích ta thấy tác giả Lê Hữu Trác là một thầy thuốc tay nghề cao. Bên cạnh tài năng ông còn là một một thầy thuốc có lương tâm và đức độ. Lê Hữu Trác xem nghề thuốc vô cùng thiêng liêng cao quý, người làm thuốc phải tiếp nối đuôi nhau lòng trung của cha ông mình,phải luôn giữ đức cho trong, giữ lòng cho sạch. Lê Hữu Trác yêu thích tự do, nếp sống thanh đạm. Vượt lên trên những danh lợi tầm thường ông trở về hành đạo cứu đời với ý niệm: Thiện tâm cốt ở cứu người. Sơ tâm nào có mưu cầu chi đâu/ Biết vui, nghèo cũng hơn giàu/ Làm ơn nào phải mong cầu trả ơn.


Vào phủ chúa Trịnh trở thành một quy trình tiếp cận thực sự đời sống xa hoa vương giả hơn là thăm bệnh, chữa bệnh. Thăm bệnh, chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán tưởng chỉ như một chiếc cớ, một dịp may giúp người viết kí hoàn thiện bức tranh về môi trường sống đời thường thâm nghiêm, giàu sang đầy uy quyền. Bằng tài quan sát tinh xảo và ngòi bút ghi chép rõ ràng, chân thực, tác giả đã vẽ lại một bức tranh sinh động về môi trường sống đời thường xa hoa, quyền quý và cao sang của chúa Trịnh, đồng thời cũng thể hiện thái độ coi thường lợi danh của tớ. Đối với ông thì không tồn tại gì quý bằng môi trường sống đời thường tự do nơi non xanh nước biếc chốn quê nhà, được đem hết tài năng, nhiệt huyết góp sức cho y thuật và cứu nhân độ thế. Cuộc sống nơi cung vua, phủ chúa dẫu giàu sang phú quý tột bậc nhưng rốt cuộc cũng ch? là vào luồn ra cúi, cá chậu chim lồng mà thôi.


Giá trị hiện thực của đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh – Mẫu 3


Lê Hữu Trác xuất thân trong một mái ấm gia đình quý tộc, giỏi binh thư, võ nghệ. Làm quan dưới thời chúa Trịnh được thuở nào hạn, ông nhận thấy xã hội thối nát, cương thường lỏng lẻo, nhân khi người anh ở Hương Sơn mất (1746), ông liền viện cớ cáo quan về nuôi mẹ già. Từ đó ông chuyên nghiên cứu và phân tích y học vừa chữa bệnh cứu đời, vừa soạn sách và mở trường dạy học truyền bá y đức, y lý, y thuật.


Ngày 12 tháng giêng năm Cảnh Hưng 43 (1782), Lê Hữu Trác nhận được lệnh chúa triệu về kinh xem mạch, kê đơn chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Sau đó thuở nào hạn thì chữa bệnh cho chúa Trịnh Sâm. Những điều Lê Hữu Trác mắt thấy tai nghe trong nhiều chuyến du ngoạn từ Hương Sơn ra Thăng Long đã thôi thúc ông cầm bút.


Năm 1783 ông viết xong tập Thượng kinh kí sự bằng chữ Hán. Tập ký sự này là một tác phẩm văn học đích thực, rực rỡ giá, có mức giá trị sử liệu cao . Đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh trong sách Ngữ văn 11 – Nâng cao, tập 1 (Nxb Giáo dục đào tạo, 2007) thể hiện được khá đầy đủ những nét độc độc lạ và rất khác nhau trong bút pháp kí sự của Lê Hữu Trác.


Như ta biết: kí là là tên gọi thường gọi chung cho một nhóm thể loại có tính giao thoa giữa báo chí truyền thông với văn học. Kí viết về đời sống thực tại, viết về người thật, việc thật. Người viết kí miêu tả thực tại theo tinh thần của sử học. Mẫu hình tác giả ký thân thiện với nhà sử học. Tác giả ký coi trọng việc thuật lại sở hữu ngọn ngành và không lúc nào quên miêu tả khung cảnh. Kí gồm có nhiều thể văn như: bút ký, phóng sự, du kí, hồi kí, nhật kí Trong số đó kí sự thiên về ghi chép rõ ràng, tỉ mỉ yếu tố – mẩu chuyện có thật. Tất nhiên xen kẽ vào mạch tự sự còn tồn tại những đoạn thể hiện nhận xét chân thực, tinh tường của nhà văn trước yếu tố việc.


Đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh vẽ lại một bức tranh sinh động về môi trường sống đời thường xa hoa quyền quý và cao sang của chúa Trịnh. Lê Hữu Trác sử dụng người trần thuật ngôi thứ nhất, trực tiếp tiếp cận cung cách sinh hoạt xa hoa của chúa Trịnh. Nhà văn quan sát tỉ mỉ, ghi chép trung thực, tả cảnh sinh động, thuật việc khôn khéo.


Mở đầu đoạn trích là một sự kiện rõ ràng, chân thực. Tính chất kí trong bút pháp của Lê Hữu Trác thể hiện rõ ở cách ghi tỉ mỉ yếu tố, thời hạn. Nhà văn phối hợp giải pháp kể quý khách quan với nghệ thuật và thẩm mỹ gợi không khí nhằm mục tiêu làm nổi trội hành vi khẩn trương, gấp gáp của nhân vật: Mồng một tháng 2. Sáng tinh mơ, tôi nghe tiếng gõ cửa rất gấp. Tôi chạy ra Open. Thì ra một người nô lệ quan Chánh đường. Ở đây trong việc có người, người gắn chặt với cảnh, với môi trường tự nhiên vạn vật thiên nhiên hoạt động giải trí và sinh hoạt rõ ràng. Câu văn của Lê Hữu Trác ngắn gọn, giàu thông tin, được viết ra một cách nhẹ nhàng, tự nhiên, không một rõ ràng thừa. Lời văn giản dị, chắc mà bay bổng, vừa truyền cảm vừa truyền nhận thức. Người đọc trọn vẹn có thể tưởng tượng được rất rõ ràng một cảnh huống đặc biệt quan trọng đang xẩy ra.



Lần theo mạch tự sự, người đọc có cảm hứng hồi hộp lo âu rồi bất thần nhận ra một con người thân trong gia đình thiện, quen thuộc như cảm nhận của nhân vật tôi trong tác phẩm này. Trước mắt ta: Hình ảnh nhân vật tôi đã dừng bước với tâm trạng ngạc nhiên, thoáng một chút ít vô vọng. Nhịp kể đột ngột đình trệ để ghi người, ghi việc rõ ràng hơn, khá đầy đủ hơn. Hai chữ thì ra vừa tạo ấn tượng về yếu tố mày mò, vừa gọi ra được người thật, việc thật .


Nhân vật tôi không hiện ra qua hình dáng rõ ràng. Trước hết anh ta xuất hiện qua giọng nói, qua cảm nhận về âm thanh, và rõ hơn ở hành vi. Nhân vật tôi xuất hiện với tư cách một người trong cuộc, trực tiếp tham gia vào yếu tố được miêu tả trần thuật. Vì thế ngay từ trên đầu truyện người đọc đã có cảm hứng đây không phải mẩu chuyện hư cấu, mà đó là bức tranh môi trường sống đời thường đang hiện hữu.


Khi kể việc, tả người Lê Hữu Trác không vay mượn những khuôn mẫu, vật liệu có sẵn, tác giả hướng tới khai thác vật liệu đời thường, đời tư. Chẳng hạn lời đối thoại của nhân vật người nô lệ được thể hiện một cách tự nhiên, đúng với vị thế chức phận của hắn: có thánh chỉ triệu cụ vào. Quan truyền mệnh hiện giờ đang ở trong nhà cụ lớn con, con vâng mệnh chạy đến đây phục vụ nhu yếu thông tin.


Lê Hữu Trác coi trọng việc kể lại sở hữu ngọn ngành. Nhà văn ưa sắp xếp yếu tố cho khá đầy đủ mạch lạc có đầu có cuối, nên dường như cứ một đoạn hay một câu nói về hành vi của tên nô lệ lại tiếp đoạn tự thuật về hành vi, cảm nhận của Lê Hữu Trác: Nghe tiếng gõ cửa..tôi chạy ra, người nô lệ nói..tôi bèn, tên nô lệ chạytôi bị xóc một mẻ, khổ không nói hết. Mạch văn ngặt nghèo nhờ việc thể hiện thành công xuất sắc cái lô gíc nhân quả của sự việc kiện, hành vi. Ban đầu ta tưởng như nhân vật tôi dữ thế chủ động, nhưng càng đọc càng thấy nhân vật tôi bị cuốn vào hết yếu tố này đến yếu tố khác.


Mở đầu đoạn trích cấu trúc câu văn ngắn gọn. Mỗi câu văn tương ứng với một tâm tình, một yếu tố, hành vi. Người đọc vừa đồng cảm với nỗi vất vả và hành vi bất đắc dĩ của nhân vật tôi vừa đống ý với Lê Hữu Trác ở thái độ mỉa mai châm biếm sự lộng quyền, tiếm lễ của chúa Trịnh Sâm lúc bấy giờ.


Quang cảnh và cung cách sinh hoạt trong phủ chúa được ghi lại khá tỉ mỉ qua con mắt quan sát của một thầy thuốc lần thứ nhất bước tiến vào toàn thế giới mới lạ. Không gian nghệ thuật và thẩm mỹ của tác phẩm ngày càng được mở rộng hơn theo bước tiến, và quan điểm của nhân vật xưng tôi. Bức tranh toàn cảnh về phủ chúa Trịnh không riêng gì có có bề rộng mà còn tồn tại chiều sâu, với một sức gợi mạnh mẽ và tự tin.


Theo nhân vật tôi quanh cảnh ở phủ chúa cực kỳ xa hoa, trang trọng – không ở đâu sánh bằng: Khi vào phủ phải qua nhiều lần cửa với những hiên chạy xoay quanh co tiếp nối đuôi nhau nhau, ở mỗi cửa đều phải có vệ sĩ canh gác. Khuôn viên phủ chúa rộng, có trạm nghỉ chân được kiến trúc thật phong thái, với cảnh trí vạn vật thiên nhiên kỳ lạ. Trong vườn, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương. Bên trong là những đại đường, gác tía với kiệu son, võng điều. Đồ dùng của chúa được sơn son thếp vàng, vật dụng tiếp quý khách ăn uống cũng đều là mâm vàng, chén bạc, của ngon vật lạ Đến nội cung của thế tử phải trải qua sáu lần trướng gấm. Nơi ở của thế tử rất sang trọng, có sập thếp vàng, ghế rồng bày nệm ấm, xung quanh lấp lánh lung linh, hương hoa ngào ngạt


Lê Hữu Trác khéo phối hợp tả triệu tập với điểm xuyết, tinh lọc được những rõ ràng đắt, nói lên quyền uy tối thượng cùng nếp sống thưởng thức cực kỳ xa xỉ của mái ấm gia đình chúa Trịnh Sâm. Giọng kể quý khách quan, trang nghiêm, xen kẽ với thái độ ngạc nhiên và hàm ý phê phán kín kẽ chúa Trịnh. Nhà văn khéo phối hợp giữa văn xuôi và thơ ca. Bài thơ vịnh cảnh, tả việc của Lê Hữu Trác ý tứ sâu xa, lời thơ hóm hỉnh, ẩn giấu một nụ cười châm biếm, mỉa mai.


Lời nhận xét trong văn phẩm khá phong phú chủng loại. Trước tiên, tác giả định hình và nhận định khái quát vẻ đẹp. Tiếp theo nhận xét về cảnh giàu sang. Tiếp nữa nêu ấn tượng về kiểu cách bày trí, kiến trúc phong thái. Nhà văn tạm ngưng bình giá tỉ mỉ, tinh xảo những vật dụng xa hoa từ nhà Đại đường đến Gác tía. Lời định hình và nhận định nào của lê Hữu Trác cũng đích đáng, tinh xảo và có chừng mực. Nói tác phẩm giàu chất trữ tình vì thế.


Tác giả quan sát những khu công trình xây dựng kiến trúc, cảnh trí vạn vật thiên nhiên qua hình khối, dáng vóc kích cỡ, tả khuôn viên đa phần qua những ấn tượng về mừi hương âm thanh, kể về mức độ xuất hiện của thị vệ, quân sĩ để nhấn mạnh vấn đề vẻ trang nghiêm của nơi đây. Lê Hữu Trác đặc biệt quan trọng ưa tả lối đi, lối vào phủ chúa. Ta có cảm tưởng đằng sau mỗi cánh cửa là một bức tranh. Đoạn trích gồm nhiều bức tranh với những mảnh màu tối sáng, nhạt đậm rất khác nhau, tiếp nối đuôi nhau nhau .


Qua mấy lần cửa thứ nhất, trước mắt tác giả tựa như một cảnh tiên huyền ảo, cây cối um tùm, hương hoa thơ mộng. Đi tiếp, cảnh giàu sang của phủ chúa được bày ra chân thực,khá đầy đủ hơn. Càng đi sâu vào trong, nhà văn càng có dịp quan sát không khí thiết kế bên trong, không khí cao rộng của lầu gác với những đồ nghi trượng sơn son thếp vàng, nhất là được biết cái phong vị của nhà triệu phú.


Vào phủ chúa Trịnh trở thành một quy trình tiếp cận thực sự đời sống xa hoa vương giả hơn là thăm bệnh, chữa bệnh. Thăm bệnh, chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán tưởng chỉ như một chiếc cớ, một dịp may giúp người viết kí hoàn thiện bức tranh về môi trường sống đời thường thâm nghiêm, giàu sang đầy uy quyền.


Tác giả tổ chức triển khai điểm nhìn trần thuật linh hoạt. Có đoạn yếu tố được kể theo quan sát của nhân vật xưng tôi. Có đoạn nhà văn làm cho nhân vật quan truyền chỉ miêu tả,trình làng. Người đọc có cảm tưởng không riêng gì có có Lê Hữu Trác dẫn ta vào phủ chúa để tự do quan sát ngắm nhìn và thưởng thức mà cả những kẻ hầu cận chúa cũng đưa ta xâm nhập, mày mò thực sự ở Đông cung. Những đoạn nhân vật tôi độc thoại toát lên cái nhìn tinh xảo và sự cảm nhận tinh xảo. Những đoạn kể tả, đã cho toàn bộ chúng ta biết nhân vật tôi bao quát được một không khí to lớn, tóm gọn được thần thái, thực ra của sự việc vật hiện tượng kỳ lạ.



Trong tư cách một người thầy thuốc quê mùa, nhân vật tôi luôn tỏ ra là một người hoà nhã kính nhường, ham học hỏi y thuật của đồng nghiệp. Sự trái chiều về vị thế so với những vị lương y của sáu cung hai viện, không khiến nhân vật tôi trở nên nhỏ bé, trái lại càng tôn cao hơn nữa nhân cách và tài năng của nhân vật này. Vẻ đông đúc của lương y nơi triều đình tự trình diện hết sự thực ở phú chúa đang tồn tại một khối mạng lưới hệ thống quan lại bất tài, ăn bám.


Các nhà nho xưa ít khi nói về phần mình. Nhưng trong đoạn trích này, tác giả đang không ngần ngại để cái tôi đóng một vai trò quan trọng. Vào phủ chúa Trịnh thể hiện trực tiếp cái tôi thành viên người cầm bút. Qua đoạn trích ta thấy tác giả Lê Hữu Trác là một thầy thuốc tay nghề cao. Bên cạnh tài năng ông còn là một một thầy thuốc có lương tâm và đức độ. Lê Hữu Trác xem nghề thuốc vô cùng thiêng liêng cao quý, người làm thuốc phải tiếp nối đuôi nhau lòng trung của cha ông mình, phải luôn giữ đức cho trong, giữ lòng cho sạch. Lê Hữu Trác yêu thích tự do, nếp sống thanh đạm. Vượt lên trên những danh lợi tầm thường ông trở về hành đạo cứu đời với ý niệm: Thiện tâm cốt ở cứu người. Sơ tâm nào có mưu cầu chi đâu/ Biết vui, nghèo cũng hơn giàu/ Làm ơn nào phải mong cầu trả ơn.


Giá trị hiện thực của đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh – Mẫu 4


Chúng ta thường nghe biết Hải Thượng Lãn Ông – Lê Hữu Trác là một người thầy thuốc thế nhưng ông còn là một một nhà văn. Cuộc đời ông sáng tác không nhiều nếu không thích nói là rất ít nhưng đã để lại những tác phẩm có mức giá trị và giàu ý nghĩa. Tiêu biểu đó là tác phẩm Vào phủ chúa Trịnh. Có thể nói qua tác phẩm ấy giá trị hiện thực được thể hiện rất rõ ràng.


Trước hết, Vào phủ chúa Trịnh được xẩy ra trong tình hình triều đình chúa Trịnh Sâm vời Lê Hữu Trác vào khám bệnh cho thái tử Trịnh Cán. Mặc dù bản thân không thích những ông vẫn phải vào theo lệnh chúa. Và những hiện thực nơi đây được nhìn qua con mắt của ông làm cho toàn bộ chúng ta thấy được môi trường sống đời thường nơi phủ chúa ra làm thế nào.


Hiện thực phủ chúa được tác giả miêu tả theo quang cảnh của phủ chúa từ ngoài vào trong, không những thế còn là một những phương pháp trong cung nữa. Mọi thứ nơi đây hiện lên thật sự rất rõ ràng.


Đầu tiên là quang cảnh nơi đây, bước tiến vào phủ chúa tác giả không hết khen ngợi bởi sự xa hoa sang trọng nơi đây. Nào là những cây cối mà chưa thấy ở đâu, những cây cối ấy toàn những của quý, cây quý cả. Quý như vậy mà trong phủ chúa lại sở hữu thật nhiều rất um tùm nữa. Phải nói qua đây ta thấy môi trường sống đời thường nơi đầy giàu sang phú quý. Không chỉ có những loại cây quý và hiếm để làm cảnh đẹp nơi đây thêm phần sang trọng mà phủ chúa còn tồn tại những loài chim cũng quý nữa. Nào là danh hoa đua thắm nào là chim kêu véo von. Có thể nói mới đặt chân vào phủ chúa mà tác giả đã vẽ lên những hiện thực nơi phủ chúa sang trọng với những loại cây, loài chim quý và hiếm. Đó hẳn là người giàu sang lắm mới trọn vẹn có thể trồng những danh hoa kia trong nhà.


Không những thế càng đi sâu vào trong phủ thì Lê Hữu Trác càng vẽ lên khung cảnh chúa với việc xa hoa mỹ lệ. Tác giả thấy nhưng không ham muốn danh lợi, đặc biệt quan trọng ông cũng thể hiện thái độ không thích sống một môi trường sống đời thường tiện nghi quá như vậy. Phải chăng chính vì tiện nghi quá cho nên vì thế thế tử kia mới mắc bệnh tật. Khung cảnh phủ chúa được tiếp tục thể hiện qua những đại đường, quyền bổng. Ở đây người ta thấy được những màu vàng chói lọi. Có thể nói màu vàng thể hiện sự giàu sang phú quý và chính vì thế mà trong phủ chúa những vật từ nhỏ cho tới lớn đều được sơn son thếp vàng. Cuộc sống vua chúa nơi đây quả thật chẳng khác nào thiên đường mà nhiều người muốn. Từ những cây cột ở đại đường đều được sơn thếp sơn vàng. Hay là những đũa chén, mâm ăn cơm, những vật dụng tưởng chừng nhỏ bé thường thì ấy cũng rất được mạ vàng. Nếu như có những mâm vàng chén bạc quý giá thì người ta chỉ để làm vật quý giá trưng bày mà thôi thế mà ở đấy là một vật dụng để ăn cơm. Có được một thứ mạ vàng hay bằng vàng là một sự quý giá lắm rồi thế mà ở đây từ vật to đến vật lớn đều là vàng cả. Cuộc sống hiện lên thật sự khá đầy đủ và giàu sang.


Đặc biệt, cung cách sinh hoạt trong cung cũng phần nào thể hiện giá tốt trị hiện thực của tác phẩm này. Để vào được trong cung thì phải qua nhiều lần bẩm báo trong phủ thì mới có thể được vào. Mọi người ở đây cung kính với chúa. Riêng bản thân chúa Trịnh Sâm thì có biết bao nhiêu là cung tần mỹ nữ vây quanh mình để chờ được hầu hạ ngài. Khi vào khám bệnh cho thái tử Trịnh Cán thì dù chỉ mà một đứa trẻ trong cung vậy thôi nhưng những người dân ngự y dù đã rất già cũng phải vái lạy thái tử rồi mới được bắt mạch kê đơn. Căn phòng trong phủ chúa thì thật lộng lẫy. Thái tử ở sau những bức chướng gấm quý giá như để che chở lấy tấm thân gọi là ngọc ngà kia.


Như vậy qua đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh của Lê Hữu Trác toàn bộ chúng ta thấy tác phẩm này thấm nhuần giá trị hiện thực của xã hội Việt nam trong năm ấy. Cuộc sống vua chúa ăn chơi, xa đọa hưởng lạc thú mà quên đi trách nhiệm trị an giang sơn của tớ.


Giá trị hiện thực của đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh – Mẫu 5


Thượng kinh kí sự là tập kí sự nổi tiếng được viết bằng chữ Hán của Lê Hữu Trác. Trong số đó, đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh nằm ở vị trí phần mở đầu tác phẩm kể về việc Lê Hữu Trác tới kinh đô được đem vào phủ để bắt mạch kê đơn cho chúa Trịnh Cán. Ở đây, ông đã tận mắt tận mắt chứng kiến được môi trường sống đời thường xa hoa nơi phủ chúa. Đó đó là giá trị hiện thực thâm thúy của đoạn trích trên.


Trước hết, tác giả đã khắc họa một bức tranh hiện thực về quang cảnh nơi phủ chúa. Khi bước tiến vào phủ chúa phải trải qua nhiều lần cửa, mỗi cửa đều phải có lính canh gác và có điếm Hậu mã túc trực. Trong phủ chúa, đâu đâu cũng là cây cối um tùm, tiếng chim kêu ríu rít, những loài hoa đua nhau khoe sắc thắm và gió đưa thoang thoảng mùi hương. Bên trong lại càng lộng lẫy hơn hết. Nào là những vật phẩm và vật dụng mà có lẽ rằng giai nhân trong nhà trước đó chưa từng thấy hết, nào là những đồ đồ nghị trượng đều được sơn son thếp vàng. Sau trong nội cung của những thê tử phải qua năm sáu lần trướng gấm, những vật phẩm và vật dụng cùng đều được sơn son thếp vàng, trên bày nệm gấm và hương hoa thơm ngào ngạt. Có thể thấy, quang cảnh nơi phủ chúa vô cùng xa hoa, giàu sang và thâm nghiêm. Đây có lẽ rằng là quang cảnh thường thấy trong lịch sử dân tộc bản địa bởi vua chúa là những người dân đứng đầu cai trị giang sơn.


Không chỉ là quan sát tỉ mỉ quang cảnh nơi phủ chúa, Lê Hữu Trác còn được tận mắt tận mắt tận mắt chứng kiến cung cách sinh hoạt hằng ngày của chúa. Khi tác giả được cáng vào phủ: tên nô lệ chạy đằng trước hét đường và cáng chạy như ngựa lồng, người giữ cửa truyền báo rộn ràng, người dân có việc qua lại như mắc cửi. Mỗi lời lẽ nhắc tới chúa đều phải nhẹ nhàng, khuôn phép thể hiện sự cung kính và lễ độ. Bữa cơm sáng của chúa đầy những của ngon, vật lạ còn vật dụng trên mân đều bằng vàng bằng bạc. Chúa Trịnh luôn có phi tần hầu chầu chực xung quanh. Thế tử nếu có bị bệnh cũng phải đến bảy tám vị thầy thuốc phục dịch và lúc nào thì cũng luôn có thể có mấy người đứng hầu hai bên. Đến khi xem bệnh không được thấy mặt thế tử, chỉ tuân theo mệnh lệnh do quan chánh đường truyền tới, trước lúc vào xem bệnh cho thế tử phải lạy bốn lạy, muốn xem thân hình của thế tử phải có viên quan nội thần đến xin phép.


Cuối cùng, Lê Hữu Trác đã đưa ra lời định hình và nhận định về phủ chúa là nơi thiếu đi sinh khí. Cũng chính vì sự thâm nghiêm kiểu mê cung làm tăng sát khí, lối sống cung cấm khiến con người dần trở nên: Tính khí khô hết, da mặt khô, rốn lồi, gân thòi xanh, chân tay gầy gò, Thế tử ở trong chốn màn che trướng phủ, ăn quá no, mặc quá ấm nên tạng phủ yếu đi. Như vậy, ở đây tác giả đã thể hiện sự không đống ý với môi trường sống đời thường nơi đó cũng như thái độ dửng dưng với những cám dỗ vật chất nơi phủ chúa.



Qua phân tích trên, trọn vẹn có thể thấy, đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh đã khắc họa vô cùng chân thực môi trường sống đời thường nơi phủ chúa. Đó đó là giá trị hiện thực mà nhà văn muốn gửi gắm.


Giá trị hiện thực của đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh – Mẫu 6


Lê Hữu Trác (Hải Thượng Lãn Ông) là một danh y có tận tâm và đức độ. Đồng thời, ông cũng là một nhà văn, nhà thơ có những góp phần đáng ghi nhận cho văn học nước nhà. Tiêu biểu trong số đó là đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh trong Thượng kinh kí sự đã để lại những giá trị hiện thực thâm thúy.


Đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh nằm ở vị trí phần mở đầu tác phẩm kể về việc Lê Hữu Trác tới kinh đô được đem vào phủ để bắt mạch kê đơn cho chúa Trịnh Cán. Ở đây, ông đã tận mắt tận mắt chứng kiến được môi trường sống đời thường xa hoa nơi phủ chúa. Hiện thực trong phủ chúa được ông miêu tả theo quang cảnh của phủ chúa từ ngoài vào trong, không những thế còn là một những môi trường sống đời thường sinh hoạt nơi phủ chúa. Tất cả đều hiện lên vô cùng chân thực.


Đầu tiên là quang cảnh trong phủ chúa. Từ khi bước tiến vào phủ chúa, Lê Hữu Trác đã khởi đầu quan sát thật tỉ mỉ. Đi được vài trăm bước, qua mấy lần cửa mới đến cái điếm Hậu mã quân túc trực. Điếm làm bên cái hồ, có những cái cây lạ lùng và những hòn đá kỳ lạ. Trong điếm cột và bao lơn lượn vòng, phong thái thật là xinh đẹp. Rồi khi vào bên trong, tác giả lại càng bất thần bởi sự xa hoa hơn hết bên phía ngoài. Qua dãy hiên chạy phía tây, đến một chiếc nhà lớn thật là cao và rộng. Hai bên là hai cái kiệu để vua chúa đi. Đồ nghi trượng đều sơn son thếp vàng. Ở giữa đặt một chiếc sập thếp vàng. Trên sập mắc một chiếc võng điều. Trước sập và hai bên, bày bàn và ghế, những vật phẩm và vật dụng nhân gian trước đó chưa từng thấy Lại qua một cửa nữa, đến một chiếc lầu cao và rộng. Ở đây, cột đều sơn son thếp vàng.


Nhưng thế đã là gì, cung cách sinh hoạt trong phủ chúa lại còn khiến ta thêm ngạc nhiên hơn thế nữa. Khi tác giả được cáng vào phủ: tên nô lệ chạy đằng trước hét đường và cáng chạy như ngựa lồng, người giữ cửa truyền báo rộn ràng, người dân có việc qua lại như mắc cửi. Mỗi lời lẽ nhắc tới chúa đều phải nhẹ nhàng, khuôn phép thể hiện sự cung kính và lễ độ. Bữa cơm sáng của chúa đầy những của ngon, vật lạ còn vật dụng trên mân đều bằng vàng bằng bạc. Chúa Trịnh luôn có phi tần hầu chầu chực xung quanh. Thế tử nếu có bị bệnh cũng phải đến bảy tám vị thầy thuốc phục dịch và lúc nào thì cũng luôn có thể có mấy người đứng hầu hai bên. Khi xem bệnh không được thấy mặt thế tử, chỉ được tuân theo mệnh lệnh do quan chánh đường truyền tới. Trước khi vào xem bệnh cho thế tử phải lạy bốn lạy, muốn xem thân hình của thế tử phải có viên quan nội thần đến xin phép.


Khi khắc họa môi trường sống đời thường nơi phủ cháu như vậy, đặt trong sự so sánh với cảnh ngộ lầm than của nhân dân ngoài kia. Nhà văn còn muốn thông qua đó tố cáo xã hội phong kiến mục rỗng đã đẩy môi trường sống đời thường của nhân dân vào khổ cực.


Tóm lại, Vào phủ Chúa Trịnh là một bức tranh hiện thực sắc nét về sinh hoạt của vua chúa thời xưa. Cụ thể là những uy quyền và môi trường sống đời thường xa hoa của chúa. Qua đoạn trích, toàn bộ chúng ta cũng thấy được bức chân dung tự họa của tác giả. Đó là một con người trung thực, một danh y có tài năng và thờ ơ với vinh hoa phú quý, một lòng lo cho nhân dân xã tắc.


Giá trị hiện thực của đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh – Mẫu 7


Vào phủ chúa Trịnh được trích từ Thượng kinh kí sự của tác giả Lê Hữu Trác. Qua ngòi bút tinh xảo, tinh xảo, con mắt quan sát tinh tường tác giả đã vẽ lên bức tranh hiện thực môi trường sống đời thường trong phủ chúa. Qua đó toát lên giá trị hiện thực, phê phán thâm thúy của tác phẩm.


Trước hết đó là bức tranh về môi trường sống đời thường đầy xa hoa nơi phủ chúa. Khi được triệu vào kinh thành để khám bệnh cho Thế tử, Lê Hữu Trác vốn con quan, sinh trưởng ở chốn phồn hoa, nơi nào trong cấm thành tôi cũng từng biết vậy mà ông cũng phải kinh ngạc khi đứng trước khung cảnh phủ chúa: Bước chân đến đây mới hay cảnh giàu sang của chúa thực chẳng khác thường thường.


Cảnh vật trong phủ chúa rất là lạ lẫm, những cái cây lạ lùng những hòn đá kì lạ phô ra trước mắt tác giả. Trong phủ chúa đâu đâu cũng thấy cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, từng cơn gió thoang thoảng đưa hương. Thực cả trời Nam sang nhất là đây. Cách bài trí, trang trí trong phủ rất là trang trọng, cầu kì: Qua dãy hiên chạy phía tây, đến một chiếc nhà lớn thật là cao và rộng. Hai bên là hai cái kiệu để vua chúa đi. Đồ nghi trượng đều sơn son thếp vàng. Ở giữa đặt một chiếc sập thếp vàng. Trên sập mắc một chiếc võng điều. Trước sập và hai bên, bày bàn và ghế, những vật phẩm và vật dụng nhân gian trước đó chưa từng thấy. Khung cảnh cực kỳ sa hoa, lộng lẫy mà không ở đâu trọn vẹn có thể sánh nổi. Nhưng đằng sau khung cảnh ấy tác giả cũng ngầm báo hiệu một điều chẳng lành ở phía trước, bởi khi môi trường sống đời thường trong phủ chúa còn xa hoa hơn nơi ở của vua thì hẳn triều đại này đã có nhiều dịch chuyển, chúa tiếm quyền vua. Qua đó tác giả kín kẽ phê phán lối sống xa hoa, trụy lạc của phủ chúa Trịnh.


Bên cạnh đó, khi miêu tả khung cảnh giàu sang, phú quý này tác giả còn ngầm báo hiệu sự suy vong và bị tiêu diệt tất yếu. Cuối tác phẩm, khi Lê Hữu Trác đã về đến Hương Sơn thì nghe tin nhà quan chánh đường bị hại, bấy giờ ông có viết: Tôi nghe chuyện than rằng: – Giàu sang như mây nổi, những nơi đàn sáo thành tháp trước đó bỗng chốc thành gò hoang cồn vắng. Lại mừng thầm rằng tôi đã ẩn thân nơi núi rừng, chẳng đoái hoài gì tới chuyện công danh sự nghiệp thành đạt.. Như vậy việc miêu tả kĩ lưỡng khung cảnh quyền quý và cao sang, cao sang nơi phủ chúa ở trích đoạn này đó là bước đệm để tác giả nên lên triết lí ở cuối bài: giàu sang như mây nổi chẳng mấy chốc rồi cũng gặp cảnh diệt vong.


Không chỉ miêu tả khung cảnh quyền quý và cao sang, xa hoa, tác giả còn đã cho toàn bộ chúng ta biết cung cách sinh hoạt trong phủ chúa. Vào phủ chúa, mang tên nô lệ chạy phía trước thét đường, cáng chạy như ngựa lồng, đã cho toàn bộ chúng ta biết nhịp độ rất là nhanh gọn, khẩn trương. Đến phủ chúa để đi tới nơi khám bệnh cho thế tử phải trải qua nhiều lần cửa, mỗi lần cửa nên phải có thẻ mới được đi tiếp. Các danh y chữa bệnh cho thế tử đều là những người dân tài giỏi, nổi tiếng ở sáu cung, hai viện ngày đêm túc trực, chờ sẵn để chữa bệnh cho thế tử. Thủ tục rườm rà, nghiêm ngặt, phải rất là kính cẩn: Thế tử bị bệnh có đến 7,8 thầy thuốc phục dịch. Khi vào xem bệnh, tác giả – một cụ già – phải quỳ lạy thế tử – một đứa trẻ. Muốn xem thân hình của thế tử phải có một viên quan nội thành của thành phố đến xin phép được cởi áo cho thế tử. Khám xong phải lạy 4 lạy mới được ra về. Trước khi được vào khám bệnh cho thế tử, Lê Hữu Trác đã được ngự bữa cơm sáng với: mâm vàng, chén bạc, món ăn toàn của ngon vật lạ, tôi bấy giờ mới biết cái phong vị của nhà đại già môi trường sống đời thường xa hoa quyền quý và cao sang choán đầy phủ chúa từ nơi ở, vật dụng, quang cảnh cho tới món ăn thức uống. Qua đó ta thấy được quyền uy tột đỉnh cùng với môi trường sống đời thường xa hoa và sự lộng quyền của nhà chúa.


Đặc biệt, ngòi bút hiện thực của tác giả còn được thể hiện trong việc miêu tả những rõ ràng tương quan đến thế tử. Thế tử ngồi trên sập chỉ độ năm sáu tuổi, nhưng Lê Hữu Trác một người già cả, phải lạy bốn lạy trước cậu bé này và còn được thế tử cười khen: Ông này lạy khéo!. Ngoài ra tác giả còn miêu tả rất là kĩ lưỡng về thế tử mặc áo lụa đỏ, ngồi trong căn phòng tối om không tồn tại cửa ngõ, phải qua năm sáu lần trướng gấm mới xuất hiện thế tử. Nơi ở của thế tử đều được sơn son thếp vàng, trên ghế bày đệm gấm, đây đều là những vật dụng đắt tiền. Qua ánh nến mờ ảo, Lê Hữu Trác nhận thấy màu mặt phấn và màu áo đỏ. Nơi ở của thế tử rất là ngột ngạt, tù túng, thiếu sinh khí và đây đó là nguyên nhân khiến thể trạng thêm phần ốm yếu. Một đứa bé đang độ tuổi ăn, tuổi chơi, đáng nhẽ phải được chạy nhảy chơi đùa cùng chúng bạn, được hòa cùng vạn vật thiên nhiên để tăng trưởng một cách khỏe mạnh, thì thế tử Cán lại bị giam hãm, cầm tù nơi lầu son, gác tía với trướng rủ màn che thiếu sinh khí, ngột ngạt, chính cảnh tù túng này đã khiến bệnh của thế tử ngày một nặng hơn: Tinh khí khô hết, da mặt khô, rốn lồi to, gân thời xanh, chân tay gầy gò. Đó là vì nguyên khí đã hao mồm, thương tổn quá mức cần thiết. Chỉ bằng một vài nét phác họa, những câu miêu tả quý khách quan tác giả đã đã cho toàn bộ chúng ta biết hình ảnh thế tử Cán gầy gò, ốm yếu cả về khung hình lẫn ý chí, nghị lực.


Để miêu tả hiện thực trong phủ chúa Trịnh, Lê Hữu Trác đã vận dụng kĩ năng quan sát tinh tường, khung cảnh bài trí trong phủ chúa được miêu tả rõ ràng kĩ lưỡng: quang cảnh vạn vật thiên nhiên, sự vật, cung cách sinh hoạt, thế tử Cán. Không chỉ vậy sự phối hợp giữa tự sự, miêu tả và biểu cảm, cùng những câu nhận xét, phản hồi đã phô bày rõ hơn sự xa hoa trong phủ chúa. Giọng điệu châm biếm, mỉa mai một cách nhẹ nhàng thể hiện thái độ của tác giả trước lối sống quyền quý và cao sang đó.


Dù chỉ là một trích đoạn vô cùng ngắn ngủi, tuy nhiên với ngòi bút tài hoa của Lê Hữu Trác đã phô bày một cách chân thực và khá đầy đủ nhất hiện thực môi trường sống đời thường trong phủ chúa, cũng là hiện thức xã hội lúc bấy giờ. Đằng sau bức tranh ấy là lời phê phán với lối sống xa hoa, hưởng lạc, đồng thời cũng dự báo về yếu tố suy vong tất yếu của nơi đây.


Giá trị hiện thực của đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh – Mẫu 8


Không chỉ là một danh y lỗi lạc của giang sơn thế kỉ XVIII và mãi mãi muôn đời sau, Lê Hữu Trác còn là một một thi nhân, một văn nhân tài ba của nền văn học Việt Nam đến tác phẩm Thượng kinh kí sự của ông, thế ký văn học nước nhà mới thực sự Ra đời. Thượng kinh kí sự là một tác phẩm ký độc lạ và rất khác nhau, mang giá trị hiện thực thâm thúy. Ta trọn vẹn có thể cảm nhận giá trị ấy qua đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh của tác phẩm.


Lê Hữu Trác sinh vào năm 1724, mất năm 1791, nghĩa là đời sống ông nằm trọn trong thời kỳ lịch sử dân tộc bản địa nhiều dịch chuyển thăng trầm nhất của lịch sử dân tộc bản địa nước nhà: thời kì những tập đoàn lớn lớn phong kiến Lê Trịnh tranh giành quyền lực tối cao, nhân dân cực khổ trăm bề, khởi nghĩa nông dân bùng nổ kinh hoàng, Đặc biệt, sự xa hoa, trụy lạc, chuyên quyền nơi phủ chúa Trịnh càng khiến bức tranh lịch sử dân tộc bản địa vốn đã đẫm màu đau thương nay lại thêm phần tối đen, xám xịt.



Là một danh y tài năng nức tiếng xa gần, Hải Thượng Lãn Ông đã được mời vào cung chữa bệnh cho thế tử nơi phủ chúa Trịnh chữa thứ bệnh con nhà giàu, vì dư ăn thừa mặc mà phạm phải. Sự thật ấy đặt vào tình hình dân chúng lầm than cơ cực, bị bóc lột đến tận xương tủy chỉ khiến người ta thấy đau đớn, chua xót và bất bình. Nhân chuyến lên kinh một lần mà nhớ mãi, và cảm thán mà Lãn Ông đã viết Thượng kinh kí sự ghi lại những điều tai nghe mắt thấy và những tâm lý cảm xúc của tớ nơi sáng nhất trời Nam.


Đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh ghi lại ngày đầu Lê Hữu Trác được triệu vào phủ chúa. Qua miêu tả cảnh vật và cung cách sinh hoạt chốn quyền uy lừng lẫy, đoạn trích đã thể hiện giá trị hiện thực thâm thúy.


Cảnh vật phủ chúa là yếu tố thứ nhất tác giả cảm nhận được. Nó là tín hiệu thứ nhất ghi lại sự khác lạ nơi đế đô hoa lệ và chốn dân gian cát bụi. Vạn vật mới đẹp tươi, xinh xắn, lộng lẫy làm thế nào! Đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương. Nhưng đó không phải thứ cây cối hoang dại bụi bờ, không phải giống chim sâu, chim sẻ, Đó đều là giống cỏ lạ chim quý những cái cây lạ lùng và những hòn đá kỳ lạ, tất thảy đều thật là xinh đẹp. Chưa hết. Thành quách nơi này mới thực lầu son gác tía. Kiểu cách xây dựng thật công phu Mấy lần cửa tiếp nhau, những dây hiên chạy xoay quanh co tiếp nối đuôi nhau. Nó tạo ra những phủ chúa cao rộng, lộng lẫy, nguy nga cái nhà lớn thật là cao và rộng, sập sơn son thếp vàng. Cảnh vật ấy khiến tác giả không cầm lòng được phải ngợi ca:


Lầu từng gác vẽ tung mây,
Rèm châu hiên ngọc, bóng mai ánh vào
Hoa cung thoảng ngạt ngào đưa tới,
Vườn ngự nghe vẹt nói đòi phen.
Đây thực là nơi Cả trời Nam sang nhất là đây!


Đáng lưu ý là ở tâm sự của tác giả: Ông từng là người xuất thân cao quý, chốn phồn hoa đi lại cũng nhiều, sinh trưởng ở chốn phồn hoa, nơi nào trong cấm thành tôi đã và đang từng biết; vậy mà chốn phủ chúa này đã khiến ông phải choáng ngợp, trầm trồ Bước chân đến đây mới hay cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hoàn toàn người thường Lê Hữu Trác tự thấy mình như kẻ quê mùa lần đầu đến nơi cung cấm, như chàng ngư phủ gặp chốn đào nguyên. Sự liên tưởng ấy thật đắt giá biết chừng nào. Điều đó phản ánh một sự thực lịch sử dân tộc bản địa: trong cuộc tranh giành quyền lực tối cao lịch sử dân tộc bản địa, nhà Trịnh đang giành thế thượng phong, uy quyền phủ chúa lấn át cả cung vua, trong lúc phủ chúa lộng lẫy, xa hoa, cung vua chẳng khác nào một chiếc nhà lớn rỗng trong, tứ bề gió lùa hoang phế.


Còn nhớ trong Vũ trung tùy bút, Phạm Đình Hổ đã từng ngậm ngùi Buổi ấy, bao nhiêu những loài trân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch, chậu hoa hoa lá cây cảnh ở chốn dân gian, chúa đều sức thu lấy, không thiếu một thứ gì. Như vậy hỏi sao chốn đây không thơm lừng hoa thơm cỏ lạ cho được? Cảnh vật nơi này, cạnh bên vẻ đẹp của chốn non Bồng nước Nhược, nó còn phản ánh một sự thực là lòng tham vô đáy, sự ích kỉ hẹp hòi của phường quận chúa. Cũng trong Vũ trung tùy bút, một sự thực giang sơn khi này được phản ánh thật đau lòng. Nhân dân phải chịu hại về việc binh đao đến mười tám năm, nhiều nơi “ruộng đất hầu thành rừng rậm. Tình cảnh ấy tất yếu dẫn đến thảm cảnh Những người dân sống sót phải đi bóc vỏ cây, bắt chuột mà ăn. Thậm chí, có bậc nho sinh trên lối đi ghé vào một trong những hàng cơm, khi ăn thì thấy trên mặt nước bát canh thịt nổi sao lên như hình bán nguyệt () thấy có con rận chết ở trên mặt bát mới biết là thịt người. Chao ôi! Vậy mà phủ chúa vẫn rộn ràng, bình yên như vậy, có ai lắng nghe thấy tiếng khóc hờ của những oan hồn thảm khốc chốn dân gian?


Đồng điệu với cảnh vật chốn này nhưng thêm ngàn lần tương phản với đời sống nhân dân trăm họ là những con người nơi phủ chúa và cung cách sinh hoạt cầu kì, phong thái, xa hoa, bệnh hoạn của mình.


Không phải vô tình Lê Hữu Trác tả kĩ mọi yếu tố mắt thấy tai nghe đến thế. Phải trách những sự ấy quá lạ lẫm, đặc biệt quan trọng, nó khác với lẽ thường vốn có.


Tác phong thao tác của mình thật khó hiểu! Đi đón một danh y chữa trị cho bậc vua chúa, họ gõ cửa rất gấp vừa nói vừa thở hổn hển vào buổi sáng tinh mơ. Thời gian ấy, cách gọi cửa ấy khiến ta ngỡ tình trạng người bệnh đà nguy kịch lắm. Đó là chưa nhắc tới cách vội vã khi đi đường của mình cáng chạy như ngựa lồng, tôi bị xóc một mẻ, khổ không nói hết. Thân già, phận thấp, tác giả đành cam lòng chứ còn biết làm thế nào?!


Nhưng thật bất thần! Vào đến phủ chúa, ta không khỏi kinh ngạc. Những tưởng nó thê lương, đau đớn vì sắp mất đi một người thân trong gia đình (gọi, mời thầy thuốc vội vã đến thế kia mà?) nhưng không, vội và, hổn hển là ai kia, là lũ lính hầu, bọn nô lệ giữ cửa, vệ sĩ, chứ không phải bậc quan, bậc chúa. Trước khi vào hầu mạch cho thế tử, Hải Thượng Lãn Ông phải trải qua mấy lần cửa, qua những dãy hiên chạy xoay quanh co tiếp nối đuôi nhau nhau, rồi lại qua mấy lần cửa (có lẽ rằng vì nhiều cửa quá không thể nhớ hết, đếm hết), đến điếm Hậu mã quân túc trực, tiếp tục đến một chiếc cửa lớn qua dãy hiên chạy phía tây đến một chiếc nhà lớn thật cao và rộng, lại qua một cửa nữa, đến một chiếc lầu cao và rộng, Theo bước tiến Quan Chánh đường ta tưởng như tác giả đang đi vào một trong những mê cung chứ đâu phải nơi người ở. Chúng còn phong thái đến mức đặt tên cho từng nơi, mỗi chốn: nhà Đại đường, nhà Quyển bồng, Gác tía, riêng vì kiêng cữ thuốc nên Gác tía còn được gọi là phòng trà. Đi qua những nơi ấy nhưng vẫn không được gặp được người cần gặp. Phủ chúa cao rộng sâu và xa quá, có lè vì vậy mà tiếng khóc muôn dân không vang tới, nó chặn kín con phố họ Trịnh về với cái Nhân, cái Thiện của con người. Đến phòng trà mới biết còn bảy, tám người ngự y cũng đang túc trực. Vậy mới biết, cách sinh hoạt của phủ chúa cầu kì, rườm rà, câu nệ vô cùng. Chỉ vì một người mà làm khổ đến bao người. Từ một ông thầy thuốc quèn phải dậy từ tinh mơ, chịu xóc một mẻ, khổ không nói hết, phải đi dạo qua quãng đường lê thê những lính xanh, lính kiểm đến những ngự y phải túc trực hằng ngày, hao tốn thì giờ nơi đây. Trong khi đó dân gian vẫn rên xiết, khổ đau. Chưa hết, vượt một quãng đường trở ngại, dài dặc như vậy đến, chỉ vì quanh thế tử khi đó có Thánh thượng cùng những phi tần đang ở xung quanh, họ lại phải quay trở lại điếm Hậu mã! Việc ăn uống nơi này xa hoa vô cùng mâm vàng chén bạc, món ăn toàn của ngon vật lạ. Thật cơm nhà giàu đổ cho chó để chốn dân gian người chết đói vô cùng! Sau bao nhiêu chờ đón, ở đầu cuối người đọc cũng rất được tiếp kiến mặt rồng.


Bên ngoài khung cảnh xinh đẹp rộn ràng là thế nhưng nơi vua nằm chúa ở lại tối om, không thấy có cửa ngõ gì cả. Không gian ấy tựa như một chiếc hang, tiềm ẩn nhiều khuất tất, lạ lùng. Thứ ánh sáng duy nhất tác giả thấy được là ánh sáng của nến sáp, từ đây ánh mặt trời không chiếu tới. Điều đó hàm một ý rất tinh: Mặt trời mang sự sống và cống hiến cho muôn loài nhưng rõ ràng kẻ trong này sẽ không được thần Dương ban ánh sáng, không được ban phúc lành, tất sẽ ốm đau bệnh hoạn. Điều này được chứng tỏ ngay với dáng vóc thân hình của thế tử ở trong chốn màn che trướng phủ, ăn quá no mặc quá ấm nên tạng phủ yếu đi () tinh khí khô hết, da mặt khô, rốn lồi to, gân thời xanh, tay chân gầy gò. Tình cảnh ấy thật thảm thương. Đứa trẻ thiếu ăn thiếu mặt gầy gò ốm yếu đã đành, nay chỉ vì dư ăn dư mặc mà ốm yếu thì thật mỉa mai đau xót. Nhìn con người ấy mặc thế tử ấy hỏi sao đảm đương được việc triều chính, gánh sao cho được sơn hà? Lối sinh hoạt nơi phủ chúa xa hoa, nghi thức mà ám muội, bệnh hoạn quá mức cần thiết.


Qua miêu tả đời sống nơi phủ chúa, Lê Hữu Trác hàm một ý phê phán nhẹ nhàng lối sống xa hoa, cầu kì nơi phủ chúa. Đặt đoạn trích nói riêng và tác phẩm nói chung vào tình hình lịch sử dân tộc bản địa ta mới thấy hết giá trị hiện thực của ngòi bút Hải Thượng Lãn Ông. Tác phẩm đã tố cáo sự ích kỉ, chuyên quyền của phủ chúa, đời sống nơi này đó là nguyên nhân gây ra mọi tai vạ đau thương cho giang sơn.


Lê Hữu Trác bằng Thượng kinh kí sự đã chứng tỏ bản thân ông không riêng gì có là một người thầy thuốc có tài năng mà còn là một một ngòi bút có tâm, có tấm lòng nhân ái, vì dân mà trách kẻ có tội. Thượng kinh kí sự đã ghi danh thêm tên tuổi một văn nhân có tài năng vào lịch sử dân tộc bản địa văn học nước nhà.



Video tương quan













Video Thượng kinh kí sự đã miêu tả môi trường sống đời thường trong phủ chúa Trịnh ra làm thế nào ?


Một số hướng dẫn một cách rõ ràng hơn về đoạn Clip Thượng kinh kí sự đã miêu tả môi trường sống đời thường trong phủ chúa Trịnh ra làm thế nào tiên tiến và phát triển nhất .


Chia SẻLink Download Thượng kinh kí sự đã miêu tả môi trường sống đời thường trong phủ chúa Trịnh ra làm thế nào miễn phí


Bạn đang tìm một số trong những ShareLink Download Thượng kinh kí sự đã miêu tả môi trường sống đời thường trong phủ chúa Trịnh ra làm thế nào Free.

#Thượng #kinh #kí #sự #đã #miêu #tả #cuộc #sống #trong #phủ #chúa #Trịnh #như #thế #nào

Đăng nhận xét

Mới hơn Cũ hơn