Bí quyết Hướng dẫn Giá trị nhân đạo trong Cung oán ngâm khúc 2022
Quý quý khách đang tìm kiếm từ khóa Giá trị nhân đạo trong Cung oán ngâm khúc 2022-03-26 15:44:06 san sẻ Mẹo Hướng dẫn trong nội dung bài viết một cách Chi Tiết.
Bài viết này cần thêm chú thích nguồn gốc để kiểm chứng thông tin. Cung oán ngâm khúc (chữ Hán: 宮怨吟曲) hay gọi tắt là Cung oán là tác phẩm kiệt xuất của Nguyễn Gia Thiều, được viết bằng chữ Nôm, gồm 356 câu thơ tuân theo thể tuy nhiên thất lục bát. Cung oán ngâm khúc, bản năm 1866 của xưởng in Phú Văn. Cung oán ngâm khúc là bài ca ai oán của người cung nữ có tài năng sắc, lúc đầu được nhà vua yêu chuộng, ái ân rất là nồng nàn thắm thiết “mây mưa mấy giọt chung tình – đình trầm hương khoá một cành mẫu đơn”, nhưng chẳng bao lâu đã biết thành ruồng bỏ. Ở trong cung, nàng xót thương cho thân phận mình và oán trách nhà vua phụ bạc “chơi hoa cho rữa nhuỵ dần lại thôi”. Cung nữ khát khao muốn “đạp tiêu phòng mà ra” để trở về với cảnh đời “cục mịch nhà quê” thuở trước, nhưng nàng vẫn tiếp tục bị giam giữ trong hoàng cung vàng son, trong nỗi buồn đau sầu thảm và oán hờn chất chứa. Cuối cùng, nàng vẫn khát khao có lại những cuộc ân ái không nhiều nếu không thích nói là rất ít khi xưa “giọt mưa cửu hạn còn mơ đến rày”, vẫn mong đợi được nhà vua đoái hoài đến trong nỗi niềm vô vọng:
Cung oán ngâm khúc là tiếng thét oán hờn của một trang nữ lưu tố cáo và phản kháng quyết sách phong kiến đã đối xử phũ phàng tàn ác so với phẩm giá và những tình cảm trong sáng, cao quý của người phụ nữ. Cung nữ đó là nạn nhân bi thảm của những độc quyền phong kiến ích kỷ và vô nhân đạo, bị vua chúa trở thành đồ chơi để thoả mãn thú tính hoang dâm của tớ, rồi bị ném đi không thương tiếc vào quên béng. Nguyễn Gia Thiều là một văn hào uyên thâm và chứa chan tinh thần nhân đạo đã thấu hiểu nỗi lòng của người cung nữ, đã dồn hết tận tâm và văn tài để viết nên một tác phẩm bất hủ, đau đớn xé lòng về đời sống nàng. Bài ngâm còn chứng tỏ đã cho toàn bộ chúng ta biết “bọn đại quý tộc đang không hề tin vào đạo trị quốc của nhà nho nữa”(trích nhận xét trong Lịch sử Việt Nam- Đào Duy Anh) Ngôn ngữ trong Cung oán ngâm khúc rất là tài hoa, đài những, tinh xác và nhuần nhị, dùng nhiều chữ Hán và điển tích, điển cố như: gió vàng hiu hắt, lạnh ngắt như đồng, thân phù thế, mùi tục luỵ, mồi phú quý, bả vinh hoa, cánh buồm bể hoạn, hoa chúm chím chào, cợt đào ghẹt mai, thánh thót cung đàn, nỉ non tiếng địch, nóng bức điệu, tê tái lòng, má đào chon chót, lặng lẽ chiếc bóng, hồn bướm vẩn vơ, dế ran ri rỉ, quyên kêu ra rả… Câu thơ trong Cung oán ngâm khúc được trau chuốt đến mức tuyệt xảo, âm điệu góc cạnh và kinh hoàng, dùng nhiều ngoa ngữ; mỗi câu thơ như dao khắc chạm vào đá gây ấn tượng đặc biệt quan trọng mạnh mẽ và tự tin:
hay
Đó là những câu thơ “kinh nhân” mà Đỗ Phủ xưa kia muốn đạt tới. Thể thơ tuy nhiên thất lục bát làm cho nhạc điệu của Cung oán ngâm khúc rất là réo rắt bởi sự hoà thanh của hai vần trắc ở hai câu 7 (nghe nóng bức) và sự hoà hoãn ở hai câu 6 – 8 (nghe êm dịu hơn). Vì thế Cung oán ngâm khúc được làm ra không phải để đọc mà là để ngâm nga. Sau đấy là đoạn mở đầu của Cung oán ngâm khúc:
Cung oán ngâm khúc(*) của Nguyễn Gia Thiều (1741-1798) là bi ca của một cung nữ tài sắc bị ruồng bỏ; tác phẩm góp thêm phần lột tả sự tàn nhẫn của quyết sách phong kiến, thể hiện tinh thần nhân đạo của tác giả truyện thơ Nôm nổi tiếng xưa nay. Còn trọn vẹn có thể đọc ra một thông điệp khác từ khúc ngâm “lời lời đều khiến mọi người phải kinh ngạc” (Lý Văn Phức) này sẽ không? Cung nữ tài sắc lúc đầu được vua sủng ái rồi nhanh gọn bị quên béng; nàng xót thương thân phận, oán trách kẻ Chơi hoa cho rữa nhụy dần lại thôi; trong oán thán, nàng vẫn hoài vọng một ái ân… Hình tượng nhân vật trữ tình này còn có thấp thoáng bóng hình ai khác nữa không? Lặn lội vào hình tượng, câu chữ, giọng điệu và nhất là tính hàm súc, ý tại ngôn ngoại vốn là đặc trưng thi pháp của thơ ca trung đại để tưởng tượng ai là người nấp sau người mẫu giữa lãnh cung thuở ấy. Trong 89 khổ tuy nhiên thất lục bát, với những đoạn “độc thoại nội tâm” của nhân vật, nhiều câu “trữ tình ngoại đề” của tác giả, khi sử dụng điển cố hay lúc vận dụng ý niệm Phật – Lão để cắt nghĩa đời sống và thân phận con người, Nguyễn Gia Thiều đã mở rộng biên độ hình tượng khiến người đọc tưởng tượng một – hình – bóng – khác ẩn tàng. 1. Trước hết là dáng dấp quan nha mà phần lớn trong họ xuất thân từ khoa bảng, xưng danh kẻ sĩ, thuộc tầng lớp trí thức thượng lưu. Bắt đầu là chuyện họ mê người mẫu, yêu vẻ đẹp, muốn chiếm hữu hoặc tìm kiếm tri âm. Cảnh rắp ranh bắn sẻ, ngấp nghé trông cũng thảm hại lắm: Làng cung kiếm rắp ranh bắn sẻ/ Khách công hầu ngấp nghé mong sao. Lắm lúc họ khá ê chề khi nhận ra cái xã hội quý tộc mà thời xôi kinh nấu sử mình từng mong ước chen chân cũng chỉ là thứ mồi, bả trên đường trần mưa bay gió cuốn: – Gót danh lợi bùn pha sắc xám, Mặt phong trần nắng rám mùi dâu – Mồi phú qúy nhử làng xa mã, Bả vinh hoa lừa gã công khanh – Cánh buồm bể hoạn mênh mang, Cái phong ba kéo cợt phường lợi danh. Dù muộn, “gã” (chữ này dùng thật đắc) chợt thấy kiếp người mong manh, danh lợi hão huyền trong cuộc tranh đoạt đầy nguy hiểm và nhiều cạm bẫy. Biết rồi, lỡ rồi mà không sao thoát ra được (một kiểu biện minh). Đúng là cuộc chết đuối trên cạn của kẻ từng mang chí lớn: Sóng cồn cửa bể nhấp nhô, Chiếc thuyền bào ảnh lô xô không nhẵn. Trẻ tạo hóa đành hanh hao quá ngán, Chết đuối người trên cạn mà chơi. Lò cừ nung nấu sự đời, Bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương. Cảnh vàng son mà người ta là người chung tay góp sức bỗng trớ trêu trong buổi suy tàn; tưởng là được hóa ra mất trắng. Kẻ sĩ, quan lại vốn là bậc nhìn xa trông rộng, nhận trọng trách “Dân chi phụ mẫu”, sao trong buổi tà dương đế chế mới nhận ra sự thể này? Có phải đến nước này họ mới biết cõi hữu vi như một thứ mộng huyễn, bào ảnh? Mồi phú quý, bả vinh hoa đã ngập lòng khi họ cất xộc vào quan lộ; kể cũng đáng thương mà cũng đáng trách trong toàn cảnh tiêu điều nhân sự: – Đất bằng bỗng rấp chông gai, Ai đem nhân ảnh nhuốm mùi tà dương. – Giấc Nam Kha khéo bất bình, Bừng con mắt dậy thấy mình tay không. – Tiêu điều nhân sự đã xong, Sơn hà cũng huyễn, côn trùng nhỏ cũng hư. – Phong trần đến hơn cả sơn khê, Tang thương đến hơn cả hoa kia cỏ này… Có điều lạ, những câu trích trên chiếm quá nhiều trang viết của khúc ngâm. Cung nhân thì việc gì phải triết luận nhân sinh quá thể, cứ như thu hoạch kinh sách thánh hiền, lại còn xỉa xói đám mũ cao áo rộng. Coi chừng không khổ vì thất sủng mà chết vì đụng đến quan viên – bọn họ cũng thù vặt và thâm hiểm như người, đồng liêu với nhau mà xúc xiểm thì rất ghê!. Rõ ràng, nàng đang diễn một vai khác, đang hóa – trang – thành – tác – giả để bộc bạch tâm trạng rã rời, chán ngán của một tầng lớp trước thời cuộc. Xuất thân trong mái ấm gia đình phong kiến quyền thế, Nguyễn Gia Thiều là cháu nội Siêu Quận công, con trai Quận công và Quận chúa (con gái Trịnh Cương), cháu gọi chúa Trịnh Doanh là cậu ruột, vợ là con gái trưởng Đại Tư đồ… Quan lộ ông quá trình đầu khá hanh hao thông (lên sáu đã vào học trong phủ Chúa; 18 tuổi giữ chức Hiệu úy, Quản trung mã tả đội; 41 tuổi thăng Tổng binh, được phong tước Hầu – nên gọi Ôn Như Hầu). Nhưng nếu chỉ quan lộ thênh thang thì chưa phải đã có khúc ngâm bi thiết kia. Một quá trình, chúa Trịnh không tin dùng ông nữa, đưa ông đi trấn giữ miền Hưng Hóa; ông chán nản bỏ về nhà riêng ở gần hồ Tây. Nguyễn Gia Thiều đã tựa vào hình tượng nhằm mục tiêu gửi gắm tâm tư nguyện vọng thì cũng là yếu tố chẳng lạ! Trên đấy là chân dung kẻ sĩ với tư cách là đối tượng người tiêu dùng trữ tình trong điểm nhìn của tác giả khúc ngâm. Bạn đọc vừa cám cảnh vừa cám ơn quan nhị phẩm trút bỏ áo xiêm nhung gấm trở về với tâm hồn thi sĩ đích thực để dệt nên áng văn chương tơ lụa muôn đời. Chúng ta đã từng phát hiện bóng hình họ trong những truyện thơ khác ví như Chinh phụ ngâm trước đó, Truyện Kiều và cả trong thơ nôm Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương… về sau. Tuy chuyện cũ tích xưa, câu thơ xấp xỉ 250 năm rồi mà cứ như chuyện ngày hôm nay; tình cảnh nơi cung cấm chẳng khác chi thảm kịch quan trường phổ cập trong cuộc bể dâu tiêu điều nhân sự đang trình làng trước mắt!… 2. Một hình tượng khác giấu kín vào nhân vật TT – thân phận kẻ sĩ, trí thức tiêu biểu vượt trội của thời đại Nguyễn Gia Thiều (tác giả) với cung nữ (nhân vật) xác lập quan hệ đồng thanh tương ứng, tuy hai mà một, là yếu tố thác gửi vào thác nguồn của khúc bi ca có một không hai. Lần này, tác giả hóa – trang – thành – nàng như Nguyễn Du đã và đang từng náu mình vào Kiều, đã từng chiêu tuyết Tiểu Thanh mà khóc hận cho Người quốc sắc, kẻ thiên tài (Truyện Kiều). Người đẹp trong những ngày vua ân sủng được mô tả bằng những dòng thơ dào dạt chẳng khác nào mối tương đắc giữa minh quân – lương tể, khác chi phận kẻ sĩ được bề trên tin tưởng lúc xênh xang nơi triều chính: Trên trướng gấm chí tôn vòi vọi, Những lúc nào thân thiện quân vương. Dẫu mà tay có nghìn vàng, Đố ai mua được một tràng mộng xuân. Vận hội của NÀNG hay của TA đều tựa Hạt mưa đã lọt miền đài những (ca dao nói Hạt vào đài những, hạt ra ruộng cày thì chưa phải vô cung là sướng, ra ruộng là đang không vui); thời cơ đến như cá nước duyên may; cứ dâng hiến, bởi SẮC và TÀI đều là hai món sở hữu số 1 của kẻ ngồi trên thiên hạ. Đẹp tựa một tràng mộng xuân, hanh hao thông thẳng tiến; rồi cuộc thế chuyển vần, “nguyên khí” ấy cũng mau chóng rơi vào quên lãng. Nhan sắc chóng tàn phai, kẻ sĩ rất khó sai khiến, không cam phận cúc cung, thỉnh thoảng lại “dở chứng”, nhất là Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh (Truyện Kiều), rơi vào trạng huống Xiêm nghê nọ tả tơi trước gió. Vườn thượng uyển đâu chỉ có có bướm hoa mặc tình khoe sắc với nắng xuân; đố kị, tranh đoạt như cỏ dại tốt tươi, như gió mưa bất chợt – Hoa thường hay héo, cỏ thường tươi (Nguyễn Trãi); tình trường và quan trường đâu phải ai cũng thoát ra khi lỡ bước tiến vào. Trong vui hạnh ngộ, nàng vẫn linh cảm nguy hiểm, tưởng tượng rủi ro đáng tiếc của kẻ muốn/ trót se duyên với giới cầm quyền: Càng lâu càng lắm điều hay,/ Cho cam công kẻ nhúng tay thùng chàm. Khi vua muốn thì luật lệ nào cản trở được; người mẫu có rắc lá dâu thì xe dê cũng ngoảnh, mưu sĩ có trình diễn kế sách thì thiên tử cũng xem như gió thoảng bên tai. Oán than trở nên giọng điệu chủ yếu lấn át mấy trăm dòng thơ tuy nhiên thất lục bát vốn là thể loại thuận tiện cho những mẩu chuyện trắc trở, tang thương: Ai ngờ bỗng một năm một nhạt, Nguồn cơn kia ai tát mà vơi. Suy di đâu biết cơ trời, Bỗng không mà hóa ra người vị vong. Ai ngờ… nhưng thật ra đã và đang biết rồi; cái họ không ngờ là nó đến hơi nhanh. Họ chợt nhận ra Thoát trần một gót vạn vật thiên nhiên/ Cái thân ngoại vật là tiên trong đời, nhưng không kịp nữa rồi, mỹ nhân – tao nhân nào phải thánh nhân. Cảnh thất sủng của cung nữ khác chi kẻ sĩ bị phế truất, biếm trích; họ tồn tại mà như biến mất giữa lầu son gác tía: Lạnh lùng thay giấc cô miên,/ Mùi hương tịch mịch, bóng đèn thâm u. Nguyễn Du trong năm gió bụi trở về làm kẻ đi săn ở núi Hồng cho qua ngày đoạn tháng. Không liên tưởng sao được khi Nguyễn Trãi như con thuyền cô độc gác chèo bãi cát mà nằm im (Cô chu trấn nhật những sa miên – Trại đầu xuân độ). Với mỹ nhân, tài nhân thì chẳng có tù đày nào thống khổ bằng sự bỏ rơi trong ngục thất của nỗi u sầu, bằng việc bỏ ngoài tai những mong ước, đề xuất kiến nghị (thậm chí còn, đọc tác phẩm của mình, vua còn muốn đào mồ lên đánh cho mấy trăm trượng về cái tội kí thác, xỏ xiên). Họ đang sống, vui ngập tràn, rồi chuyển sang sống như người chưa chết (vị vong), nên rất đau: Cái buồn này ai dễ giết nhau. Giết nhau chẳng cái lưu cầu, Giết nhau bằng cái u sầu độc chưa! Chưa có án trảm nào ban ra mà âm sắc câu thơ như có lưỡi gươm đao phủ. Người đẹp không sợ chết, chỉ sợ già, sợ phụ bạc, sợ đơn côi. Trí thức coi việc chém đầu như trò chơi, có người ra pháp trường vẫn tứ thơ lai láng, họ chỉ sợ lỡ vận, không gặp được minh quân, không thi triển được tài năng kinh bang tế thế. Hình ảnh chiều tà đời người theo bút pháp cổ xưa quen thuộc nhưng điệp hòn đảo, giằng xé mãnh liệt: Hoàng hôn thôi lại hôn hoàng… Trong tận cùng cô độc đời Kiều, Nguyễn Du cũng không tả khác, chỉ thêm bớt đôi chữ cho đủ câu bát (8 âm tiết): Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng… Chưa hết, hai đại trí thức của hai thời đại suy vi ấy không riêng gì có cùng tâm trạng mà còn cùng cả cách biểu lộ: Tình buồn cảnh lại vô duyên/ Tình trong cảnh ấy, cảnh bên tình này. (Nguyễn Gia Thiều); Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu/ Tình trong cảnh ấy cảnh trong tình này. (Nguyễn Du). Chỉ thương cho hai nàng (một ở cấm cung, một ở lầu Ngưng Bích), rằng tâm sự của đấng nam nhi sao bắt phận má hồng gánh hộ!?… Tôi ơi đừng vô vọng (Trịnh Công Sơn), cung nhân lại nhen nhóm chút kỳ vọng mong manh về một ngày quân vương đoái thương. Hy vọng đến mức ám thị: Mơ hồ nghĩ tiếng xe ra,/ Đốt phong hương hả mà hơ áo tàn. Mấy dòng thơ quá xuất sắc cả ý lẫn lời, nhất là loại sau. Xạ hương hết mùi lại cố đốt lên để hơ mảnh tàn y sẵn sàng cho đêm hạnh ngộ. Hành động níu kéo cái không thể níu kéo thật vô vọng xiết bao: Khi bóng thỏ chênh vênh trước nóc, Nghe vang lừng tiếng giục bên tai: Đè chừng nghĩ tiếng tiểu đòi, Nghiêng bình phấn mốc mà nhồi má nheo. Ẩn dụ mà như tả thực, tả thực cũng chẳng sai: Nghiêng bình phấn mốc mà nhồi má nheo. Hoang tưởng chuyện vua tìm tới đã đành, còn hoang tưởng ngay trên chính nhan sắc của tớ dù lúc tỉnh ra chợt biết Huống chi cũng lạm phần son phấn, son nào nhuộm được má hồng cho tươi… Phai tàn rồi, lỗi thời rồi! Mộng rồi cũng dứt, nhân vật trữ tình ước ao: Thà rằng cục mịch nhà quê còn hơn là Miếng cao lương phong lưu nhưng lợm…; rồi muộn màng cất tiếng: Cười nên tiếng khóc, hát nên giọng sầu. Sầu thì oán, cung nữ than thân mà hát nên, như anh hùng lỡ vận ngửa mặt kêu với cao xanh: Tay tạo hóa cớ sao mà độc,/ Buộc người vào kim ốc mà chơi./ Chống tay ngồi ngẫm sự đời,/ Muốn kêu một tiếng cho dài kẻo căm! Chẳng khác mấy với Đặng Dung trong Cảm hoài: Vận khứ anh hùng ẩm hận đa… Và gần lắm với Xuân Hương: Trơ cái hồng nhan với nước non… Khúc ngâm có tần suất xuất hiện cao của chữ “buồn”, mỗi chữ một cung bậc, một trạng thái tâm lí, một tâm cảnh: Mặt buồn trông trên cửa nghiêm lâu (đợi chờ); Cái buồn này ai dễ giết nhau (oán trách); Buồn vì nỗi nguyệt tà ai trọng/ Buồn vì điều hoa rụng ai nhìn (thương thân); Tình buồn cảnh lại vô duyên, Lại buồn đến cảnh con con (đơn độc); Lòng ngán ngẫm buồn tênh mọi nỗi (chán ngán); và đỉnh điểm là không thể lý giải nổi: Buồn này mới gọi buồn sao?. Trịnh Cốc, thi nhân nổi tiếng đời Đường, với bài thơ Hoài thượng biệt hữu nhân (Chia tay bạn trên sông Hoài), đã tả nỗi buồn đến giết người – Dương hoa sầu sát độ giang nhân (Hoa liễu nở khiến quý khách qua sông buồn muốn chết). Xuân Diệu sau này, muốn tránh lối cũ, đã viết trong Chiều: Tôi buồn không hiểu biết vì sao tôi buồn. Cả Trịnh Cốc và Xuân Diệu đều đề cập đến “nguyên nhân buồn”, còn Nguyễn Gia Thiều nói “mức độ buồn”, muốn định lượng nỗi buồn mà đành bất lực, buồn vậy là buồn hết chỗ nói! Ôn Như Hầu kí thác vào đó tâm trạng gì mà khản giọng? Thơ sáng tạo về buồn đau mới thấm; thơ hồ hởi phấn khởi (ví như trong phần sủng ái) dẫu có đẽo gọt thế nào đọc lên nghe không thể nào hay được, nên không sống lâu được! Khổ kết, nàng có vẻ như khát khao ân ái trở về – Giọt mưa cửu hạn còn mơ đến rày… – nhưng hơi thơ, mạch thơ, giọng điệu vẫn não nùng, vô vọng: Bóng câu thoáng bên mành mấy nỗi, Những hương sầu phấn tủi bao xong. Phòng khi động đến cửu trùng, Giữ sao cho được má hồng như xưa? Má nheo, phấn mốc, hương hả, áo tàn… rồi còn đâu mà giữ; chưa cho vào chùa, chưa đày đi coi mộ, chưa chôn theo vua, chưa “tam ban triều điển”… đã là ân huệ. Anh hùng, kẻ sĩ, nghệ sĩ phụng sự giới cầm quyền khi lỡ vận cũng phận ấy mà thôi. Hãy coi chừng, nếu vua bỗng dưng hứng chí quay trở lại thì thảm kịch có lúc còn to nhiều hơn! Năm 1439 Lê Thái Tông triệu hồi Nguyễn Trãi ra phục chức sau mấy năm cho về hưu trí ở Côn Sơn. Cá lại gặp nước, Nguyễn Trãi dâng Biểu tạ ơn với lời lẽ thắm thiết: Thương thần như ngựa già còn kham rong ruổi/ Cho thần như tùng bách qua năm rét, càng dạn tuyết sương/ Quần môn mặc kệ dèm pha/ Thánh ý cứ bền tin tưởng. Bốn năm tiếp theo, chính ông vua sa thải rồi trọng dụng Ức Trai lại là người ra bản án tru di tam tộc chấn động ngàn năm. Kẻ sĩ ngây thơ hay tự tin vào tài năng quyền biến như Nguyễn Trãi đã viết: “nói tất nghe mà kế tất theo”?. Cho nên, đừng trách mưu sĩ đôi lúc hoang tưởng, “dở chứng nói liều” để thỏa nỗi ấm ức, những điều mà lúc còn trong cương tỏa họ đành im tiếng. Làm gì có chuyện vừa ăn lộc thiên tử (là sưu thuế dân đen) vừa xách mé con trời; viết tụng ca chưa ráo mực lại quay sang lên giọng trí thức thanh cao! Nguyễn Du đã ý thức rất rõ ràng: Trên đường danh lợi buồn hay vui cũng không được tự nhiên (Xuân thu lữ thứ); ông đã thấu hiểu cái trò diễn lố lăng của tất cả chính mình trong ấy rồi; ông biết mình lỡ diễn, phải diễn, để văn chương tự do lặng lẽ sinh hạ vĩnh cửu… Khi Nguyễn Huệ lập triều Tây Sơn, Nguyễn Gia Thiều được vời vào cung nhưng ông cáo bệnh (có thuyết nói rằng ông bất đắc dĩ về Kinh nhưng suốt ngày uống rượu, bất hợp tác). Biết chối bỏ danh lợi, bất phục cường quyền, tự vấn lương tâm, nhất là thấy được phần sai lầm đáng tiếc đời mình mới là phẩm chất của kẻ sĩ mọi thời đại. Rất khác với quá nhiều kẻ mang danh chữ nghĩa mà nói cứ như thực, tưởng thật; vai tuồng đã trút bỏ trên sân khấu mà còn mang áo mão về đời; đã trót uốn éo vì duyên rồi mà còn trách móc trời gần trời xa, phát ngôn như phường tuồng đi lạc! Ẩn náu trong hình tượng cung nữ đó là thông điệp thẩm mỹ và làm đẹp sâu xa về kẻ sĩ của Nguyễn Gia Thiều. Tác phẩm của ông sống mãi chính vì lẽ đó; nếu không thì nó đã xong phận sự từ sau khoản thời hạn Bảo Đại trút áo hoàng bào. Khi tiếp nhận giá trị tác phẩm, người đọc “có nghề” thường địa thế căn cứ vào khuynh hướng sáng tác, phương thức biểu lộ, quy mô, những tín hiệu nghệ thuật và thẩm mỹ v.v… để khai mở tác phẩm. Trong Văn chương và Hành động, viết năm 1936, Hoài Thanh đề cập rất sớm yếu tố này: “Cho hay những thứ lí thuyết về văn chương chẳng có nghĩa lí gì, chẳng ăn thua gì. Bởi vì điều cốt yếu trong văn chương là tinh thần sáng tạo và đặc tính của tinh thần sáng tạo là tự do, là không ngờ, là linh động, là sống vậy. Người ta không thể đưa cái lối sống khác vào trong những khuôn mẫu chết. Khuôn mẫu chết đấy là những lí thuyết văn chương”. Tác giả Cung oán ngâm khúc được tự do và người đọc Nguyễn Gia Thiều cũng phải được tự do; để từ đó, người đọc góp thêm phần sáng tạo với tác giả như một “sự vẫy gọi” (J.P. Sartre) đúng nghĩa. Cách tiếp cận trên đây đi theo sự vẫy gọi khó cưỡng và kĩ năng lĩnh hội hạn chế của người viết – cũng chỉ vì muốn tìm lối đi khác trên con phố có quá nhiều dấu chân phía trước và vốn tác động những lí thuyết văn chương. N.M.H Video tương quan |
Chia sẻ
đoạn Clip Giá trị nhân đạo trong Cung oán ngâm khúc ?
Một số hướng dẫn một cách rõ ràng hơn về đoạn Clip Giá trị nhân đạo trong Cung oán ngâm khúc tiên tiến và phát triển nhất .
Share Link Down Giá trị nhân đạo trong Cung oán ngâm khúc miễn phí
Bann đang tìm một số trong những Chia SẻLink Download Giá trị nhân đạo trong Cung oán ngâm khúc Free.
#Giá #trị #nhân #đạo #trong #Cung #oán #ngâm #khúc